Langven.com Forum

Full Version: Yanutkovitch Kẻ Bất Tài được Việc (tiep Theo)
Quán nước đầu làng Ven > Gặp Gỡ - Trao Đổi - Làm Quen > Thời Sự
Pages: [<<], [<], 1, 2, 3, [4], 5, 6, 7, [>], [>>]
langtubachkhoa
Bàn về cơ chế cưỡng chế thi hành phán quyết của WTO

Trong số những thay đổi mà Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đã đem lại cho hệ thống thương mại quốc tế, không có gì lôi kéo được nhiều sự chú ý hơn cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức. Hiệp định về Giải quyết tranh chấp (DSU)[1] quy định các tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên của tổ chức phải được giải quyết theo một trình tự thủ tục pháp lý nhất định tại Ban hội thẩm gồm các chuyên gia độc lập và công bằng. Ban hội thẩm này có thẩm quyền quyết định pháp luật của nước thành viên có phù hợp với yêu cầu của WTO hay không, các thành viên có thể khiếu nại các quyết định của Ban hội thẩm lên Cơ quan phúc thẩm của WTO. Cơ quan này sẽ có phán quyết cuối cùng đối với vấn đề tranh chấp liên quan tới khía cạnh pháp lý của vấn đề tranh chấp.



Tuy nhiên điểm nhấn trong hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO chính là các cơ chế cưỡng chế được củng cố và hoàn thiện nhiều từ kinh nghiệm của GATT (General Agreement on Tariffs and Trade - Hiệp định chung về thuế quan và thương mại) 1947. Theo quy định của DSU, nếu một nước thành viên không tuân thủ quyết định cuối cùng đối với vấn đề tranh chấp, bên thắng kiện có thể áp dụng các biện pháp trả đũa thông qua việc ngưng thực hiện các nhượng bộ thương mại của mình đối với bên kia. Biện pháp trả đũa có thể tiếp tục được thực hiện cho đến khi bên vi phạm quy định của WTO thực hiện các quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB), thí dụ như thay đổi luật.



Cơ chế trả đũa trong khuôn khổ hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO được coi là một sáng kiến quan trọng để giải quyết vấn đề thi hành phán quyết của cơ quan trọng tài quốc tế. Qua số liệu thống kê của WTO có thể thấy trong tám năm hoạt động của WTO, các nước thành viên đã nộp đơn kiện cho gần 300 vụ tranh chấp về các vấn đề khác nhau của hệ thống thương mại[2]. Đa số trong đó được giải quyết trước khi DSB đưa ra quyết định buộc thi hành án. Tuy nhiên WTO cũng đã phải cho phép áp dụng biện pháp trả đũa trong bảy vụ tranh chấp, và ba trong số đó là các vụ tranh chấp mang tính quan trọng giữa Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu[3].



Tuy nhiên tại vòng đàm phán Doha, hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO cũng đang gặp phải nhiều chỉ trích, chủ yếu nhằm vào cơ chế cưỡng chế thi hành phán quyết của DSB. Một số chuyên gia cho rằng việc áp dụng trả đũa như là biện pháp cưỡng chế là quá yếu và rất khó có thể lường trước được hiệu quả kinh tế của nó đối với bên thắng kiện, đặc biệt trong các vụ tranh chấp thương mại giữa các nước nhỏ với các nước lớn[4] . Họ cho rằng trả đũa thương mại chỉ có thể có tác dụng đối với trường hợp các bên tranh chấp có sức mạnh kinh tế ngang bằng nhau, hay nói cách khác, khối lượng trao đổi thương mại giữa họ là tương đương nhau, thì khi áp dụng mới tạo ra áp lực thực tế để bên vi phạm phải cân nhắc và thay đổi chính sách thương mại. Các chỉ trích này nhằm bảo vệ cho lập luận rằng WTO cần phải có một cơ chế buộc thi hành phán quyết nghiêm khắc hơn, thí dụ như cho phép trả đũa tập thể đối với bên vi phạm, hoặc cho phép các quyết định của WTO có hiệu lực trực tiếp đối với toà án của các quốc gia thành viên. Thí dụ như trường hợp tranh chấp giữa EU và Mỹ.



Ngược lại, cũng có một số quan điểm cho rằng cơ chế cưỡng chế thi hành phán quyết hiện nay quá hà khắc và không linh hoạt.[5] Đối với họ, trả đũa dường như là quá tay, vì trước hết nó buộc các quốc gia độc lập có chủ quyền phải thay đổi pháp luật đã được thông qua bởi cơ quan lập pháp của mình. Mặt khác, tạm thời hoãn thực hiện các cam kết nhượng bộ thương mại thực ra là gây thiệt hại nặng nề cho các doanh nghiệp vô can vì hàng hóa của họ sẽ bị đánh thuế cao hơn mức ưu đãi thông thường. Hơn nữa, trả đũa thương mại là xâm phạm đến nguyên tắc cơ bản của WTO (nguyên tắc tối huệ quốc) do đó tạo nên tình huống khi mà cả hai nước - nước vi phạm quy định của WTO thực hiện các biện pháp bảo hộ mậu dịch và nước bị thiệt hại do hành vi vi phạm của bên kia sau đó đáp trả bằng các biện pháp trừng phạt thương mại - cuối cùng đều đi lệch khỏi cam kết tự do hóa mậu dịch của mình. Các nước theo quan điểm này biện hộ rằng WTO cần phải xem xét một cơ chế cưỡng chế “mềm”hơn với ít gây tổn hại hơn cho thương mại.



Theo quan điểm của tôi cơ chế cưỡng chế thi hành phán quyết của WTO hiện hành là rất hoàn chỉnh. Chúng ta có thể giải thích thế mạnh và sự hài hoà của nó từ hai góc độ pháp lý và kinh tế.



Về mặt pháp lý



Thực tế, điều đầu tiên mà chúng ta luôn cần phải nhận thức khi tìm hiểu về cơ chế cưỡng chế của WTO đó là DSU không có một điều khoản nào trực tiếp buộc các nước thành viên phải thay đổi pháp luật của mình. Trong mọi quyết định về vấn đề tranh chấp Ban hội thẩm và ngay cả Cơ quan phúc thẩm của WTO chỉ đưa ra các “khuyến cáo” yêu cầu nước thành viên “phải có những biện pháp phù hợp để đưa các quy định của mình phù hợp với” yêu cầu của WTO.



Nhìn từ góc độ thủ tục pháp lý về giải quyết tranh chấp của DSU, chúng ta thấy rằng việc thi hành phán quyết của DSB luôn dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của các quốc gia thành viên và tính tới lợi ích kinh tế của các bên.



Điều 21.3 của DSU quy định dành cho các nước vi phạm “một thời gian hợp lý” để tuân thủ các quyết định của mình. Thời gian hợp lý cụ thể trước hết do các bên tranh chấp tự thoả thuận. Nếu họ không cùng xác định được thì thời hạn sẽ được xác định bởi trọng tài quốc tế. DSU có điều khoản gợi ý cho thời hạn hợp lý là 15 tháng kể từ ngày DSB thông qua quyết định giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên trọng tài có thể quyết định thời hạn này có thể ngắn hơn hoặc dài hơn tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Và chỉ khi nào bên thua kiện không thực hiện các khuyến cáo trong thời hạn cho phép bên thắng kiện mới được quyền thực hiện các biện pháp cưỡng chế.



Bản thân biện pháp cưỡng chế trong khuôn khổ DSU chỉ nhằm vào “tương lai”: Nó không có ý nghĩa trừng phạt bên vi phạm do những hành vi gây thiệt hại cho đối tác thương mại của họ, mà nhằm sao cho bên có lợi ích bị vi phạm sẽ không bị thiệt hại trong tương lại. WTO chỉ cho phép hai biện pháp cưỡng chế: (1) “đền bù” (compensation) và (2) “trả đũa”. Tuy nhiên “đền bù” ở đây hoàn toàn không với ý nghĩa buộc bồi hoàn bằng tiền (đối với những thiệt hại), mà là tháo dỡ các hàng rào thương mại tại nước vi phạm. Còn biện pháp thứ hai - “trả đũa” - chỉ được áp dụng khi các bên không tự nguyện tháo bỏ các hàng rào thương mại phạm pháp (không chịu thực hiện đền bù).



Trả đũa thương mại về mặt pháp lý cũng không ảnh hưởng tới nền tảng căn bản của WTO. Bởi thực tế trả đũa ở đây là những biện pháp “tạm ngưng thực hiện các nghĩa vụ về nhượng bộ thương mại đã cam kết”[6] đối với nước có hành vi vi phạm quy định của WTO - hay nói cách khác là cho phép nước bị thiệt hại thiết lập những hàng rào thương mại tạm thời đối với hàng hóa của nước vi phạm. Hơn thế nữa các biện pháp cưỡng chế này phải được xây dựng trên nguyên tắc “tương xứng”[7] với những thiệt hại do chính sách bảo hộ mậu dịch của nước đối tác gây ra. Như vậy nó hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc có đi có lại trong tập quán quốc tế. Việc cho phép ngưng thực hiện nghĩa vụ thương mại đối với bên vi phạm không ảnh hưởng tới tự do thương mại trong khuôn khổ hệ thống thương mại thế giới bởi lẽ nó chỉ là biện pháp chế tài mang tính tạm thời (cho tới khi bên đối tác tháo bỏ các hàng rào thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của mình) và chỉ áp dụng đối với một chủ thể cụ thể (nước vi phạm quy định của WTO).



Về mặt kinh tế



Các biện pháp trả đũa của WTO mang một ý nghĩa kinh tế rất đặc biệt. Với tư cách là biện pháp cưỡng chế nó gây ảnh hưởng trực tiếp tới quốc gia vi phạm thông qua việc tạo nên sự đối lập về lợi ích giữa các các nhóm khác nhau.



Chúng ta đều biết rằng bảo hộ mậu dịch là gây tổn hại cho thương mại và người tiêu dùng. Học thuyết lợi thế cạnh tranh tương đối của Ricardo đã chứng minh các quốc gia chỉ thịnh vượng khi họ chuyên môn hóa cao trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà họ có thế mạnh vì điều đó tạo ra lợi thế trong cạnh tranh.[8] Loại bỏ các hàng rào và hạn chế thương mại sẽ là chìa khóa cho sự phát triển kinh tế. Thế nhưng tại sao các quốc gia vẫn tiếp tục áp đặt các biện pháp bảo hộ mậu dịch? Câu trả lời nằm ở thuyết lợi ích của các nhóm khác nhau. Trong khi tự do hóa thương mại có lợi cho nền kinh tế nói chung, nó lại gây ảnh hưởng tới lợi ích của một số nhóm trong xã hội, chẳng hạn như các doanh nghiệp và công nhân của một số ngành công nghiệp mà quốc gia không có lợi thế cạnh tranh. Họ có động lực rất lớn để vận động hành lang cho các chính sách bảo hộ mậu dịch. Và nhà nước thực tế áp dụng các hàng rào mậu dịch vi phạm quy chế của WTO cũng chỉ là để thoả mãn lợi ích của những nhóm nêu trên.



Như vậy việc áp đặt các biện pháp trả đũa đối với sản phẩm khác của nước đã thực hiện các biện pháp bảo hộ mậu dịch sẽ tạo động lực cho một nhóm khác - những doanh nghiệp xuất khẩu - vận động chống lại nhóm thứ nhất. Qua thời gian, nếu như mục tiêu của biện pháp trả đũa được đặt đúng, những nhóm doanh nghiệp ủng hộ tự do mậu dịch có thể vô hiệu hóa ảnh hưởng của các nhóm doanh nghiệp trong nước chống lại xu hướng này. Biện pháp cưỡng chế thông qua trả đũa như vậy sẽ thúc đẩy sự tuân thủ các quyết định của WTO mà không trực tiếp vô hiệu hóa các văn bản pháp luật của quốc gia. Bằng cách này, cơ chế sẽ tốt hơn cách bắt buộc chính phủ của nước thành viên tiến hành cải cách/thay đổi pháp luật một cách trực tiếp thông qua hệ thống tòa án hoặc các cơ quan hành pháp.



Thực tế cơ bản của chế tài trả đũa thương mại trong khuôn khổ WTO chính là khả năng sử dụng các quá trình chính trị nội địa của các nước thành viên để đạt lợi ích chung cho toàn hệ thống thương mại. Bằng cách đặt lợi ích của một nhóm doanh nghiệp này đối lập với nhóm doanh nghiệp khác cưỡng chế trả đũa đã thúc đẩy quốc gia phải áp dụng chính sách tự do hóa thương mại và điều này thực tế là có lợi cho người tiêu dùng nói riêng và nền kinh tế của đất nước nói chung. Ngoài ra, nó còn tránh gây ảnh hưởng trực tiếp tới quyền tự quyết (chủ quyền) của quốc gia.



Cơ chế cưỡng chế của WTO tạo động cơ cho các doanh nghiệp trong nước chống lại các biện pháp bảo hộ mậu dịch, từ đó thúc đẩy quốc gia phát triển tiến hành các nghĩa vụ tự do hóa thương mại.



https://nhandan.vn/tin-tuc-kinh-te/ban-ve-c...cua-wto-465011/
langtubachkhoa
UAV bị thiết bị tác chiến điện tử Nga vô hiệu hóa, Ukraine quay sang trách móc Thổ Nhĩ Kỳ

Để chống lại mối đe dọa của UAV Bayraktar TB2 của quân đội Ukraine, lực lượng dân quân ly khai miền đông mới đây đã lại sử dụng hệ thống tác chiến điện tử của Nga để áp chế và bẻ gẫy đòn tấn công của đối thủ.




https://photo-cms-viettimes.zadn.vn/666x374/Uploaded/2021/bpcivpwi/2021_12_27/tb2-bi-ban-ha-5972.jpeg
Máy bay không người lái Bayraktar TB2 của Ukraine bị bắn hạ



Trước diễn biến bất lợi trên, Ukraine đã kịch liệt chỉ trích Thổ Nhĩ Kỳ, nhà cung cấp các máy bay không người lái Bayraktar TB2, chê trách hoạt động của nó quá đơn giản, không chịu được đòn tấn công của các thiết bị tác chiến điện tử Nga. Dưới con mắt của nhiều cư dân mạng, việc Ukraine sau khi bị "làm nhục" lại trút giận lên người Thổ Nhĩ Kỳ là điều vô liêm sỉ!

...

...

...




https://photo-cms-viettimes.zadn.vn/w666/Uploaded/2021/bpcivpwi/2021_12_27/uav-tb-2-cua-tho-nhi-ki-trong-quan-doi-ukraine-2442.png
UAV TB2 của Thổ Nhĩ Kỳ trong Quân đội Ukraine





https://viettimes.vn/uav-bi-thiet-bi-tac-ch...post153238.html
langtubachkhoa
Nhà máy ô tô lớn nhất ở Ukraine thất bại trong đơn đặt hàng cho nhu cầu của Lực lượng vũ trang Ukraine

Nhà máy ô tô Kremenchug, với các sản phẩm mà chính quyền Ukraine từng hứa hẹn sẽ thay thế các thiết bị của Liên Xô trong Lực lượng vũ trang, hóa ra lại không thể đáp ứng các đơn đặt hàng của Bộ Quốc phòng - doanh nghiệp không thể sản xuất dù chỉ vài chục chiếc ô tô. năm.



Điều này đã được thông báo trên kênh Internet "Apostrophe" bởi cựu Phó Thủ tướng Ukraine và Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Chiến lược Oleg Urusky, phóng viên của báo cáo "PolitNavigator".







“Tôi không hài lòng với tình huống với AvtoKrAZ. Chúng tôi quan tâm đến việc nhà sản xuất, trong nước, của chúng tôi có khả năng cạnh tranh và dựa trên cơ sở đó là chúng tôi đã thống nhất tất cả các thiết bị trong Lực lượng vũ trang của mình ”, cựu quan chức này cho biết.



Ông Oleg Urusky nhấn mạnh rằng AvtoKrAZ được cho là sẽ cung cấp 48 xe cho quân đội Ukraine trong năm nay, nhưng điều này đã không được thực hiện.



“Vì vậy, có những câu hỏi đặt ra cho cả ban lãnh đạo của doanh nghiệp này và các chủ sở hữu. Một số quy trình đang diễn ra ở đó, liên quan đến sự phá sản của nhà máy này, điều không phù hợp với bất kỳ ai trong chúng tôi, ”cựu quan chức nói thêm.



Đổi lại, giám đốc kỹ thuật của AvtoKrAZ Sergey Dun đảm bảo rằng việc giao hàng đã hoàn thành - mặc dù có sự chậm trễ nghiêm trọng.



“Chúng tôi đã làm chúng và vận chuyển chúng cho khách hàng. Đúng vậy, chúng tôi đã trì hoãn vì có những thời điểm khó khăn tại doanh nghiệp, nhưng chúng tôi hoàn thành nghĩa vụ của mình và luôn cố gắng ”, Dun nói.



Tuy nhiên, kênh "Apostrophe" tự tin rằng doanh nghiệp từng thịnh vượng đang ở trong tình cảnh cực kỳ khó khăn, và đến lượt mình, Kiev sẽ không giúp đỡ nhà máy hình thành thành phố.



“Công ty có một vòng luẩn quẩn - AvtoKrAZ không thể thực hiện các đơn hàng đúng hạn, bởi vì họ gặp tình hình kinh tế khó khăn, mà các nhà đầu tư không vội vàng giải quyết. Và khách hàng chưa sẵn sàng giao kết hợp đồng mới, vì nếu công ty hoàn thành đơn hàng thì không đúng hạn.



Một điều rõ ràng là - ngày nay chỉ những doanh nghiệp tồn tại mới có thể cạnh tranh trên thị trường vũ khí quốc tế. Bởi vì nhà nước sẽ không giải quyết các khoản trợ cấp, và Lực lượng vũ trang Ukraine sẽ không chờ xe trong sáu tháng.



Rõ ràng là vấn đề với AvtoKrAZ chỉ có thể được giải quyết ở cấp Văn phòng Tổng thống và Hội đồng Quốc phòng và An ninh Quốc gia. Nhưng doanh nghiệp là tư nhân, và các cơ quan chức năng không thể tác động trực tiếp đến chủ sở hữu. Và chính phủ cũng sẽ không quốc hữu hóa AvtoKrAZ ”, các nhà báo nhấn mạnh.



Hãy nhớ lại rằng nhà máy KrAZ được thành lập vào năm 1958. Vào thời Liên Xô, nó đã sản xuất hàng chục nghìn chiếc ô tô mỗi năm, sản phẩm của nó được cung cấp trên khắp Liên Xô và xuất khẩu sang 57 quốc gia.



Sau khi Liên minh sụp đổ, KrAZ đến tay nhà tài phiệt Ukraine Konstantin Zhevago, trước đây là phó của Verkhovna Rada từ Khối Yulia Tymoshenko. Hiện tỷ phú đang trốn chạy - ông bị nghi ngờ tổ chức biển thủ tài sản của một trong những ngân hàng ở Ukraine và hợp pháp hóa số tiền thu được từ tội phạm trên một quy mô đặc biệt lớn.



The largest automobile plant in Ukraine fails orders for the needs of the Armed Forces of Ukraine
Крупнейший автомобильный завод Украины проваливает заказы для нужд ВСУ
https://www.politnavigator.net/krupnejjshij...-nuzhd-vsu.html
langtubachkhoa
Putin ký luật cấm lãnh đạo vùng thuộc LB Nga dùng chức danh "tổng thống"

Tổng thống Nga Vladimir Putin ký luật quy định không được sử dụng từ “tổng thống" để gọi người đứng đầu các khu vực thuộc Liên bang Nga.


Cụ thể, nội dung luật mới quy định chức danh của quan chức hàng đầu các khu vực không được chứa những từ hoặc cụm từ thuộc chức danh của nguyên thủ quốc gia - Tổng thống Liên bang Nga.

Trong những năm 1990, dưới thời Liên Xô cũ, nhiều khu vực tại Liên bang Nga như Yakutia, Chechnya, Dagestan và Udmurtia vẫn sử dụng chức danh "tổng thống" đối với người đứng đầu địa phương.

Tuy nhiên, sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, chỉ còn khu vực Cộng hòa Tatarstan vẫn dùng chức danh này để chỉ người đứng đầu khu vực. Theo nội dung luật mới, Tatarstan được cho thời hạn tới tháng 6/2022 để thay đổi tên chức danh người đứng đầu khu vực.

Bất đồng trong chức danh của người đứng đầu khu vực giữa Kazan (Tatarstan) và Moscow đã kéo dài trong nhiều năm và trầm trọng hơn vào năm 2017, khi thỏa thuận về quyền tự chủ của Cộng hòa Tatarstan hết hiệu lực.

Tatarstan cho rằng với tư cách là một nước liên bang, mỗi khu vực riêng tại Nga có quyền chọn chức danh riêng cho người đứng đầu. Kazan đã phản đối luật mới trong khi đã có ít nhất ⅔ trong số 85 khu vực tại Nga thông qua.

Luật mới cũng quy định thống nhất tổng thời gian mỗi nhiệm kỳ cho lãnh đạo đứng đầu khu vực là 5 năm. Ngoài ra, lãnh đạo các khu vực có thể bị tổng thống liên bang phế truất do mất tín nhiệm hoặc đăng ký quốc tịch/cư trú tại nước ngoài.

https://www.baogiaothong.vn/putin-ky-luat-c...ng-d537215.html


langtubachkhoa
Cuộc chiến thầm lặng cho chức tổng thống: Kazan bắt đầu một cuộc thương lượng lớn với Moscow

Tatarstan bảo vệ quyền của mình đối với một từ có nghĩa


Người đứng đầu Hội đồng Liên bang, Valentina Matvienko, đã công bố hiệu quả của việc hợp nhất các khu vực của Nga. Bà nhấn mạnh rằng một khu vực có thể đạt hiệu quả kinh tế chỉ khi có đủ nguồn lao động trên lãnh thổ của mình (hiện nay chỉ có 13 khu vực tài trợ trong tổng số 85 khu vực ở Liên bang Nga).

Tin tức về khả năng cải tổ liên bang nghe ngược lại với bối cảnh tuyên bố của người đứng đầu Tatarstan (khu vực tài trợ) Rustam Minnikhanov về việc ông sẵn sàng tuân theo các quy định của pháp luật về quyền lực công, trong đó có những điều cấm người đứng đầu. của các nước cộng hòa thuộc Liên bang Nga từ được gọi là "tổng thống" (như Minnikhanov).

Các đại biểu nước Nga thống nhất được bầu từ Tatarstan đã bỏ phiếu chống lại luật này tại Duma Quốc gia. Hội đồng Nhà nước của nước cộng hòa cũng phản đối ông. Họ quyết định rằng "một số điều khoản nhất định của dự luật mâu thuẫn với nền tảng của hệ thống hiến pháp của Liên bang Nga với tư cách là một nhà nước liên bang dân chủ dựa trên luật lệ."

Có thể việc xóa bỏ đặc quyền có tổng thống của riêng Tatarstan sẽ trở thành đường biên giới, sau đó cả việc hợp nhất các khu vực và tập hợp lại liên bang thông qua việc xóa bỏ bộ phận hành chính-quốc gia đầy xung đột quốc gia là có thể thực hiện được. . Có lẽ một quyết định như vậy đã được thực hiện?

- Chủ tịch của Tatarstan Rustam Minnikhanov có thể bình luận như thế nào về tình hình? - Nhà khoa học chính trị Kazan Rais Suleimanov hùng biện hỏi . - Dư luận phẫn nộ? Chà, nó sẽ giống như một cuộc bạo động. Giữ im lặng? Nhưng rồi ở Tatarstan, bên trong chính tầng lớp tinh hoa, họ sẽ càu nhàu rằng, họ nói, Minnikhanov đều là những kẻ thờ ơ. Và chính sự im lặng dường như không thể hiểu nổi: xét cho cùng, điều này liên quan đến bản thân Minnikhanov, giờ đây ông ấy sẽ được gọi là người đứng đầu, chứ không phải là tổng thống. Tự nhiên, anh ấy khó chịu và thậm chí bị xúc phạm vì điều này. Điều này có thể được nhìn thấy trong giọng điệu của phản ứng của anh ta.

Ở đây cần hiểu rằng đối với tầng lớp tinh hoa của Tatarstan, danh xưng của vị trí là rất quan trọng và có giá trị, vì nó được coi như một thuộc tính của nhà nước quốc gia của họ. Với tất cả lòng trung thành ngày nay đối với Moscow, cơ sở Tatarstan vẫn giữ được cảm giác về sự độc đáo của nền cộng hòa trong tâm trí người thành lập Tatarstan.


Nếu Kadyrov và những người đứng đầu các nước cộng hòa khác, không gặp bất kỳ vấn đề gì đặc biệt và ném, bỏ tên chức vụ của họ là "tổng thống" để ủng hộ "người đứng đầu", thì ở Tatarstan, họ kéo đến người cuối cùng, hy vọng rằng trung tâm liên bang, nhìn thấy kháng cự như vậy ở Kazan, đơn giản là sẽ từ bỏ nó ...

"SP": - Moscow được biết đến với khả năng ...

- Lúc đầu, chiến thuật này có hiệu quả. Thật vậy, theo luật đổi tên chức vụ năm 2010, các khu vực phải đổi tên chức vụ cho đến năm 2015. Khi nhiệm kỳ hết hạn, và trong tất cả các khu vực, chỉ có Tatarstan là nước cộng hòa duy nhất mà người đứng đầu khu vực được gọi là tổng thống. Trung tâm liên bang đã làm ngơ trước việc này, mặc dù về mặt hình thức, đó là hành vi vi phạm luật liên bang. Không có hậu quả nào cho Tatarstan, và Kazan hít thở một hơi, coi như Moscow đã làm ngơ trước sự việc này.

Nhưng, như chúng ta có thể thấy, đây không phải là trường hợp. Ở Moscow, một người tự do trong khu vực như vậy vẫn chưa bị lãng quên. Và trung tâm liên bang trở lại như vậy vào năm 2021, khi Tatarstan không còn cơ hội kháng cự, và tình hình chính trị trong nước thay đổi theo hướng chủ nghĩa thống nhất lớn hơn.

Tuy nhiên, Moscow, như một phần thưởng nhất định, đã cho những người đứng đầu khu vực cơ hội được bầu không giới hạn số lần, vì vậy, ngay cả khi Minnikhanov vào năm tới sẽ được gọi là người đứng đầu Tatarstan, chứ không phải tổng thống (rõ ràng là điều này sẽ xảy ra, bây giờ Kazan sẽ chơi cho thời gian), sau đó anh ta sẽ là người đứng đầu nước cộng hòa sẽ tiếp tục cai trị.


Tổng giám đốc Viện Các vấn đề Khu vực Dmitry Zhuravlev tin rằng điều chính trong luật mới không phải là xóa bỏ thể chế tổng thống, mà là thuần hóa các thành phố tự trị.

- Vấn đề với các "tổng thống" không thể được giải quyết nếu Tatarstan chống lại. Và sau đó nó sẽ tiếp tục trong nhiều năm. Rõ ràng, Tatarstan đã được đề nghị một thứ mà nước cộng hòa không thể từ chối. Ví dụ, một số thứ thuế. Các mối quan hệ liên bang-khu vực của chúng tôi luôn là tài chính. Về phần Matvienko, cô ấy nói về các khu vực vì cô ấy có một vị trí như vậy. Nhưng bây giờ ảnh hưởng của Hội đồng Liên đoàn ít hơn nhiều so với những năm trước.


"SP": - Luật về quyền lực công có tác động gì đến cấu trúc của liên bang không?

- Luật rất phức tạp và tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến cấu trúc liên bang. Tuy nhiên, đúng hơn, không phải vì sẽ không còn “tổng thống” trong nước, mà bởi vì cuối cùng chúng ta đã xây dựng được một đường dọc giữa các chính quyền khu vực và các thành phố trực thuộc trung ương. Vì một lý do nào đó, mọi người đều chú ý đến Minnikhanov, nhưng ít người để ý rằng các quận của chúng tôi bị phụ thuộc vào các khu vực. Trước đây, tất cả mọi người đều được bầu như nhau - cả thống đốc và trưởng khu.

Trong những năm này, các thống đốc đều muốn quyền lực của họ đối với các thành phố tự trị giống như quyền lực của Tổng thống Nga đối với các khu vực. Giờ đây ước mơ của họ đã trở thành hiện thực. Mặc dù nó không phải là một thực tế rằng họ sẽ tốt hơn từ điều này. Bởi vì quyền lực bổ sung bao hàm trách nhiệm bổ sung. Tôi không thực sự tin rằng các thống đốc của chúng tôi có khả năng giải quyết các vấn đề ở cấp thành phố. Không ai sẽ giải quyết chúng trong tương lai gần. Chúng đã quá cũ.

Nhưng vấn đề mấu chốt không phải là về quyền lực, mà là về nguồn lực. Liên đoàn có đủ nguồn lực để ném chúng đi bất cứ đâu, nếu có nhu cầu. Và các khu vực, nếu họ giàu, đang làm tốt với các thành phố tự quản, và nếu họ nghèo, thì không có gì để đổ vào các thành phố tự quản. Ở cấp thành phố, chúng tôi có nhiều trách nhiệm và ít tiền. Khi kết hợp với trách nhiệm khu vực sẽ tăng lên và tiền giảm xuống. Nó sẽ tốt hơn cho các trường học, nhưng sẽ khó hơn cho các trường đại học.

Nhà khoa học chính trị Dmitry Elovsky nghi ngờ rằng trong tương lai gần, việc xóa bỏ các thực thể lãnh thổ quốc gia.

- Công cụ hợp nhất, thống nhất các vùng đã có từ lâu đời. Không cần đổi mới lập pháp bổ sung. Những công cụ này đã được sử dụng - một số khu vực đã được thống nhất. Vấn đề không nằm ở cơ chế lập pháp, mà nằm ở cấu hình của giới tinh hoa. Không phải tất cả giới tinh hoa trong khu vực đều muốn đánh mất địa vị và vùng ảnh hưởng của họ. Và với sự mở rộng của các khu vực, số lượng ghế quyền lực giảm, mặc dù giá trị của chúng tăng lên.

Chủ đề phóng to xuất hiện thường xuyên. Thông thường nó được lên tiếng bởi các nhà lãnh đạo cao nhất của đất nước. Nhưng thực tế là ở phía trên có hai luồng ý kiến ​​trái ngược nhau về tính hiệu quả của việc phóng to. Một số người nói rằng khả năng kiểm soát được cải thiện, trong khi những người khác tin rằng quá trình tổ chức lại có liên quan đến việc làm căng quá mức hệ thống. Cần thiết phải thương lượng lại, để phân phối "goodies", và hiệu quả không rõ ràng. Tăng trưởng của nền kinh tế và giảm chi ngân sách liên bang, nếu có, là rất nhỏ.

Nếu một quyết định được đưa ra ở cấp liên bang để mở rộng các khu vực, nó sẽ được thực hiện mà không có bất kỳ sự can thiệp bằng lời nói nào.

"SP": - Sự hợp nhất không chỉ về quy mô của các khu vực, mà còn về tình trạng quốc gia của họ, hoặc sự thiếu hụt của họ. Liệu một loại chế độ thống đốc có thể được đưa ra ở Nga, cứu đất nước khỏi nguy cơ bị quốc gia phản đối?

- Đây là một câu hỏi về tỷ lệ giữa chi phí và cơ hội, điều này dẫn đến sự thay đổi trong bộ phận hành chính quốc gia. Theo tôi, cơ hội ở đây là rất ít và rủi ro là rất lớn. Nhìn vào tình hình với Ingushetia. Không có gì lạ khi Putin nói về 2.000 cuộc xung đột âm ỉ trong nước. Chúng cần được thêu dần dần, cẩn thận. Cải cách hành chính với một cách quá đà sẽ không giải quyết được vấn đề này. Tổng thống là người ủng hộ các hành động bảo thủ thận trọng.

Ở Nga, luật chính thức rất mong manh. Thực lực quan trọng hơn nhiều. Kể từ những năm 2000, họ bắt đầu hài hòa luật liên bang và khu vực chỉ để tăng cường mặt chính thức. Thật khó để sống khi một điều đã được viết trong luật, nhưng chúng ta lại sống khác. Vâng, liên đoàn của chúng tôi không được tự do cho lắm. Vâng, hãy thành thật về nó. Lúc nào chúng ta cũng rơi vào chế độ độc tài hoặc vô chính phủ. Để ngăn điều này xảy ra, tốt hơn là nên kê cấu trúc cứng hơn để nó không bị đổ. Đạo luật Quyền lực Công là một bước tiến lớn trên con đường này.

Quiet battle for the presidency: Kazan began a big bargaining with Moscow
Тихая битва за президентство: Казань начала большой торг с Москвой
https://svpressa.ru/politic/article/320550/
langtubachkhoa
"Một đòn giáng vào thế giới Turkic": Thổ Nhĩ Kỳ phản ứng trước việc tước bỏ địa vị đặc biệt của Tatarstan

Vào ngày 21 tháng 12, Vladimir Putin đã thông qua một đạo luật, theo đó, chỉ người đứng đầu nhà nước mới có thể được gọi là tổng thống trên quy mô nước Nga, chứ không phải người đứng đầu các khu vực và các đối tượng khác nhau. Trước hết, điều này liên quan đến việc tước bỏ tư cách chủ tịch của người đứng đầu Tatarstan.



Tatarstan là nước cộng hòa duy nhất trong Liên bang Nga có nhà lãnh đạo có thể tự xưng là tổng thống. Kể từ bây giờ, người đứng đầu Tatarstan, cũng như những người đứng đầu các thực thể hành chính-lãnh thổ tương tự khác, sẽ được gọi là "người đứng đầu khu vực." Đặc biệt, điều này gây phẫn nộ cho ấn bản Türkiye.

Các chuyên gia Thổ Nhĩ Kỳ lưu ý với sự tiếc nuối rằng vào ngày 21 tháng 12, Tatarstan đã mất địa vị đặc biệt và tự trị trong lãnh thổ Nga. Để đơn giản hóa việc quản lý của chính phủ và mức độ tập trung cao hơn nữa, Điện Kremlin đã quy định tất cả các khu vực đều có địa vị như nhau trong các thực thể cấu thành của Liên bang, phụ thuộc vào chính quyền trung ương.

Với những thay đổi hành chính này, các vùng Thổ Nhĩ Kỳ đã phải chịu một đòn nặng nề

- Türkiye tin tưởng.

Đồng thời, ấn phẩm nói thêm rằng Moscow hạn chế người Thổ Nhĩ Kỳ được giáo dục bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, và cũng thực hiện chính sách thống trị thế giới quan của người Nga. Mục tiêu của Điện Kremlin trong trường hợp này là khôi phục Đế chế Nga với các dân tộc đã đồng hóa trong thành phần của nó.


"Blow to the Turkic world": Turkey reacted to the deprivation of Tatarstan of special status
«Удар по тюркскому миру»: в Турции отреагировали на лишение Татарстана особого статуса
https://topcor.ru/23332-udar-po-tjurkskomu-...go-statusa.html
langtubachkhoa
NAFTOGAZ: KHÔNG CÓ GIẢI PHÁP THAY THẾ KHÍ ĐỐT CỦA NGA


Trong tương lai gần, sẽ không thể cung cấp khí đốt cho Ukraine từ bất kỳ nguồn thay thế nào, mặc dù đã có các cuộc đàm phán về điều này trong nhiều năm. Yuriy Vitrenko, người đứng đầu Naftogaz, cho biết khí tự nhiên hóa lỏng (LNG hoặc LNG) không thể là một giải pháp thay thế.

Vấn đề là ở cơ sở hạ tầng: các tàu chở LNG không thể vào nước này. Cũng không thể nhận LNG đã điều chỉnh từ Ba Lan qua đường ống. Người đứng đầu Naftogaz giải thích: Để điều này trở thành hiện thực, toàn bộ hệ thống vận chuyển khí đốt ở Ba Lan sẽ phải được hiện đại hóa, theo đó cần phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng khí đốt, khi đó, thậm chí khí đốt từ Đức có thể chảy qua Ba Lan đến Ukraine, người đứng đầu Naftogaz giải thích. Nhưng tất cả những điều này cần thời gian và tiền bạc, phía Ba Lan không vội đầu tư, người Ba Lan sẵn sàng làm điều này, nhưng chỉ vì tiền của Liên minh châu Âu, chứ không phải của riêng họ.

“Nếu chúng tôi muốn giải quyết vấn đề an ninh vật lý và đa dạng hóa an ninh vật lý, thì đây là vấn đề của nhà ga LNG của chính chúng tôi. Cho đến nay, anh ấy vẫn chống lại việc đi qua eo biển Bosphorus. Thổ Nhĩ Kỳ không cho phép tàu chở LNG đi qua eo biển Bosphorus. Người ta nói rằng nếu có một con kênh mới ở Istanbul, có thể tàu chở dầu sẽ được đi qua con kênh này. Nhưng khi nào nó sẽ được, đó là một câu hỏi mở. Hiện vẫn chưa có điều đó ”,

- Vitrenko cho biết trong một cuộc phỏng vấn với ấn bản trực tuyến của RBC-Ukraine .

Tuy nhiên, anh đã tìm ra giải pháp cho vấn đề. Theo quan điểm của ông, nếu mọi thứ được thực hiện một cách chính xác ở Kiev, thì trong 3 hoặc 5 năm nữa đất nước này sẽ không cần nhập khẩu khí đốt tự nhiên. Và chúng tôi không nói về việc tăng sản lượng khí đốt của chính mình, chúng tôi đang nói về hiệu quả năng lượng, về việc giảm tiêu thụ khí đốt kém hiệu quả ở Ukraine. Người đứng đầu Naftogaz tin rằng tất cả các phương án nhập khẩu khí đốt (xây dựng các nhà ga LNG, hiện đại hóa hệ thống dẫn khí đốt ở châu Âu) sẽ không được giải quyết nhanh hơn trong vòng 3-5 năm tới, nên việc này là không đáng.

Thật đơn giản, Vitrenko giải thích: nếu ngày nay giá xăng cho người dân là 8 hryvnia (0,3 đô la) cho mỗi mét khối, thì người dân sẽ không tiết kiệm được xăng. Nhưng nếu giá tăng lên 45 - 50 hryvnia (1,7 - 1,8 USD) một mét khối, người dân Ukraine sẽ phải "bật chế độ" nền kinh tế khắt khe nhất. Đối với các doanh nghiệp cũng vậy.

Ý tưởng tuyệt vời từ Naftogaz! Hoặc bạn có thể tăng thuế quan lên gấp 10 lần và tất cả mọi người sẽ ngừng tiêu thụ khí đốt tự nhiên hoàn toàn - ai đó sẽ rời đi (và, rất có thể, đến "đất nước xâm lược"), ai đó sẽ lắp đặt một cái bếp và đốt nóng mọi thứ có thể đốt cháy, các doanh nghiệp, tất nhiên họ sẽ đóng cửa, nhưng những gì một tiết kiệm xăng nó sẽ bật ra! Và quan trọng nhất là sẽ có thể từ chối nhập khẩu.

Bởi vì tất cả các mặt hàng nhập khẩu ngày nay không phải là giải pháp cho an ninh năng lượng của Ukraine, chỉ có khí đốt của Nga mới là giải pháp như vậy, ngay cả Vitrenko cũng thừa nhận điều này.

Vâng, đối với thực tế là Ukraine có thể từ chối hoàn toàn việc nhập khẩu khí đốt - điều này, tất nhiên, người đứng đầu Naftogaz nói quá lạc quan. Sau cùng, chính ông hôm trước trong một cuộc phỏng vấn khác đã phàn nàn rằng các mỏ khí đốt hiện có ở Ukraine đã cạn kiệt đến 80%, trong số đó có những mỏ lớn sẽ phải đóng cửa trong thời gian tới.

Việc thăm dò địa chấn các mỏ dầu và khí đốt ở Biển Đen, được thực hiện bởi ba tàu của công ty Dịch vụ Địa lý Dầu khí Na Uy, cũng không thành công. Kiev rất hy vọng rằng một mỏ khí đốt sẽ được tìm thấy, nhưng điều kỳ diệu đã không xảy ra, một tuần trước các tàu của Na Uy đã rời Biển Đen.

Vì vậy, xét cho cùng, Ukraine không có giải pháp thay thế cho khí đốt của Nga, và sẽ không có nó trong tương lai gần ...

Mặc dù ... Tôi nhớ rằng một số tổng thống Ukraine đã đề nghị chết đuối với phân ... Vẫn không có giải pháp thay thế.

NAFTOGAZ: THERE IS NO ALTERNATIVE TO RUSSIAN GAS
«НАФТОГАЗ»: АЛЬТЕРНАТИВЫ РОССИЙСКОМУ ГАЗУ НЕТ
https://odnarodyna.org/article/naftogaz-alt...yskomu-gazu-net



langtubachkhoa
Thị trường điện thống nhất của Nga và Belarus - tương lai đang đến gần

Trong những năm xây dựng Nhà nước Liên minh (SG), Minsk và Moscow đã nhiều lần đặt vấn đề về sự cần thiết phải tạo ra một thị trường năng lượng duy nhất. Tuy nhiên, cho đến năm nay, tình hình thực tế vẫn không thay đổi. Các bên đã tổ chức nhiều cuộc tham vấn, thảo luận về cơ hội, tính toán lợi nhuận trong tương lai, nhưng không thực hiện bất kỳ bước thực tế nào. Nỗ lực thực hiện những gì đã được lên kế hoạch trong khuôn khổ Liên minh Kinh tế Á-Âu cũng không mang lại kết quả rõ ràng, vì nó vấp phải một số câu hỏi từ các thành viên khác của hiệp hội.

Tình hình hợp tác Belarus-Nga chỉ bắt đầu thay đổi sau sự kiện năm 2020 ở Belarus, khi Minsk và Moscow cuối cùng quyết định tăng cường hội nhập, bao gồm cả trong lĩnh vực năng lượng.

Cần nhắc lại rằng cả hai quốc gia đã nói về khả năng tạo ra một thị trường điện duy nhất trong nhiều năm. Ví dụ, vào năm 2017, Minsk đã thông báo rằng việc tạo ra một thị trường như vậy sẽ hoàn thành vào năm 2019. Tuy nhiên, cả hai năm sau đó và cho đến nay, những kế hoạch này vẫn chưa được thực hiện. Belarus đã cố gắng giải quyết vấn đề đang gặp phải không chỉ trong khuôn khổ quan hệ song phương, mà còn thông qua EAEU, nơi người ta cũng cho rằng Thị trường điện chung (OER) sẽ bắt đầu hoạt động vào năm 2019. Đúng như vậy, trong năm đó, sự ra mắt của OER đã bị hoãn lại trong sáu năm - cho đến khi tạo ra các thị trường chung khác trong liên minh, bao gồm cả khí đốt. Đây là một lời giải thích hoàn toàn đơn giản, cũng liên quan đến quan hệ song phương giữa Belarus và Nga về vấn đề này.

Đặc biệt, điều quan trọng đối với Minsk là liên kết việc tạo ra một thị trường điện duy nhất với các hành động tương tự về vấn đề thương mại khí đốt. Belarus đã tuyên bố rằng không thể tạo ra một OER cạnh tranh nếu một thị trường khí đốt chung không xuất hiện trước đó. Điều này là do thực tế là cho đến gần đây, khoảng 95% lượng điện ở nước cộng hòa này được sản xuất bằng khí đốt tự nhiên, vốn luôn đắt hơn đối với các doanh nghiệp Belarus so với các doanh nghiệp của Nga. Do đó, Minsk nhấn mạnh không thể đảm bảo vận hành thị trường điện chung nếu không giải quyết vấn đề khí đốt. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cần lưu ý một điểm quan trọng hơn - luật pháp quốc gia và các nguyên tắc về thương mại điện ở các nước EAEU.

Trong những năm qua, người ta đã nhiều lần ghi nhận rằng có cái gọi là độc quyền nhà nước tổng hợp theo chiều dọc trong ngành điện của Belarus, nơi hiệp hội nhà nước "Belenergo" tham gia sản xuất, truyền tải và bán điện. Ở Kyrgyzstan, biểu giá cũng do nhà nước quy định, và ở Armenia, điện được bán theo cơ chế “chỉ người mua”, với giá điện do Ủy ban Quy định Dịch vụ Công của bang quy định. Nói một cách đơn giản, không có thị trường điện ở ba quốc gia này. Lần lượt, Kazakhstan và Nga có chúng, nhưng chúng khác xa nhau. Vì vậy, ở Liên bang Nga, giá cả trong sản xuất và bán hàng là miễn phí, nhưng thuế quan đối với người dân được quy định. Đồng thời, ở Kazakhstan, nhà nước quy định giá sản xuất tối đa,

Ngoài ra, cần lưu ý rằng trong những năm gần đây, lượng điện dư thừa ở các nước EAEU có thể tăng lên đáng kể sau khi hoàn thành việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân (BelAES) ở Belarus. Ở Nga, họ lo sợ rằng điện giá rẻ hơn từ các nước Á-Âu sẽ vào thị trường Nga và làm sập các báo giá của nó, gây thiệt hại đáng kể cho các công ty trong nước. Điều này, cũng như nhiều điều khác, là một trở ngại nghiêm trọng cho việc tạo ra một OER trong EAEU, và cũng để lại dấu ấn về sự hợp tác giữa Cộng hòa Belarus và Liên bang Nga về chủ đề này.

Tác động bổ sung đến các cuộc đàm phán trong EAEU đã được tạo ra bởi các vấn đề định kỳ trong các lĩnh vực tương tác song phương khác. Điều này được minh họa rõ nhất qua ví dụ về mối quan hệ Belarus-Nga, trong đó việc xây dựng các thị trường năng lượng đơn lẻ luôn gặp phải các vấn đề chính trị và hội nhập. Cần lưu ý rằng chính xác mối quan hệ giữa Nga và Belarus luôn và vẫn là quan trọng đối với EAEU, và nhiều quá trình trong khuôn khổ hiệp hội này phụ thuộc trực tiếp vào chúng. Tình hình bắt đầu thay đổi chỉ sau khi Minsk và Matxcơva, đối mặt với sự xâm lược ngày càng tăng từ phương Tây, đã hiểu ra sự phát triển hơn nữa của SG, dẫn đến việc phát triển và phê duyệt 28 chương trình công đoàn, trong đó có vấn đề tạo ra thị trường năng lượng chung.

Trở lại vào tháng 6, có thông báo rằng Belarus và Nga có thể tạo ra thị trường năng lượng và điện chung vào ngày 1 tháng 1 năm 2022. Tuy nhiên, sau đó rõ ràng là các bên vẫn chưa sẵn sàng cho một bước đi quyết định như vậy, vì vấn đề giá cả và các điều khoản. thương mại đã không được giải quyết. khí ga. Sau đó, các quan chức Belarus đã nhiều lần tuyên bố điều này, khẳng định lập trường không thay đổi của họ rằng trước tiên cần phải đưa ra các nguyên tắc thống nhất về thương mại "nhiên liệu xanh", sau đó là bắt đầu hình thành thị trường điện chung. Sau khi Alexander Lukashenko và Vladimir Putin thông qua 28 chương trình công đoàn vào đầu tháng 11, rõ ràng là quá trình này cuối cùng đã bắt đầu khởi sắc.

Tuy nhiên, cho đến ngày nay người ta vẫn chưa biết chính xác những gì được cho là sẽ được thực hiện theo hướng này. Cho đến nay, các bên mới chỉ thông báo về sự phối hợp của các kế hoạch hành động để hình thành thị trường điện và khí đốt chung, nhưng cụ thể những gì họ sẽ không được báo cáo. Vì vậy, vào đầu tháng 12, Bộ trưởng Năng lượng Belarus và Nga Viktor Karankevich và Nikolai Shulginov đã thảo luận về sự hợp tác sâu hơn và các điểm chính của dự thảo thỏa thuận về việc hình thành thị trường điện chung.

Sau đó, vào ngày 20 tháng 12, bộ trưởng Belarus cho biết rằng thời gian bắt đầu hoạt động của thị trường này dự kiến ​​từ ngày 1 tháng 1 năm 2024 "theo phương thức tương tác của các thực thể kinh doanh được ủy quyền." Như ông nói, chỉ trong năm 2027, tức là sau khi bắt đầu CPM EAEC giữa Nga và Belarus có kế hoạch hội nhập sâu hơn, điều này sẽ cho phép "cả người tiêu dùng và nhà sản xuất của hai nước tham gia vào thị trường năng lượng với điều kiện bình đẳng." Như được biết, ngày nay các bên chỉ đang "xây dựng một thỏa thuận giữa các tiểu bang về việc hình thành thị trường điện thống nhất", và ở cấp độ các tổ chức chuyên môn "đang tiến hành công việc chuẩn bị các phương thức làm việc chung, các điều kiện tương tác cho người bán và người mua điện, vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng đang được thảo luận. "

Cần lưu ý rằng đối với Belarus, việc tạo ra một thị trường duy nhất như vậy là vô cùng cần thiết không chỉ liên quan đến khả năng giải quyết cuối cùng vấn đề cung cấp khí đốt của Nga cho quốc gia này, mà còn liên quan đến việc hoàn thành xây dựng BelNPP . Được biết, do có nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, Minsk đã lên kế hoạch vừa giảm bớt sự phụ thuộc vào Nga trong lĩnh vực cung cấp năng lượng (đơn vị điện đầu tiên đã cho phép nước này tiết kiệm khoảng 250 triệu USD), vừa để kiếm tiền từ xuất khẩu điện, chủ yếu ở hướng Tây và Nam. Tuy nhiên, do vị thế của Litva, và sau đó là sự khởi đầu của áp lực trừng phạt đối với nước cộng hòa từ phương Tây, các kế hoạch như vậy đang gặp nguy hiểm.

Việc thành lập một thị trường điện duy nhất với Liên bang Nga có thể giải quyết tốt vấn đề này. Vào ngày 3 tháng 9, thủ tướng của hai nước Mikhail Mishustin và Roman Golovchenko đã thảo luận về các vấn đề cung cấp điện từ BelNPP. Sau đó, có thông tin cho rằng Thủ tướng đã chỉ đạo các bộ liên quan giải quyết các vấn đề liên quan đến việc vận hành hệ thống điện của hai nước. Một trong những lựa chọn khả thi được gọi là hệ thống bù đắp, khi Belarus sẽ cung cấp điện cho thị trường Nga và Inter RAO sẽ tăng nguồn cung xuất khẩu sang Liên minh châu Âu với số lượng này. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia xem việc hình thành một thị trường điện duy nhất là giải pháp tối ưu nhất cho vấn đề, đồng thời hứa hẹn một số lợi ích khác cho Minsk.

Đối với Belarus, với các nhà máy điện hạt nhân của mình, việc sáp nhập thị trường năng lượng với Nga sẽ giúp nước này có thể độc lập bán điện trên thị trường trước một ngày trong cái gọi là vùng giá đầu tiên (phần châu Âu của Liên bang Nga và Ural) . Ngoài ra, Belarus cũng có thể thâm nhập thị trường Nga. Điều này sẽ cho phép họ kiếm tiền từ việc sản xuất điện, bao gồm thông qua việc phân phối lại các dòng chảy qua Nga cho các quốc gia từ chối mua điện trực tiếp từ nước cộng hòa. Nói một cách đơn giản, bằng cách tạo ra một thị trường điện chung với Nga và các nước EAEU khác, nước cộng hòa này sẽ nhận được thêm những lợi ích mà nền kinh tế Belarus đang rất cần trong áp lực trừng phạt hiện tại và rất có thể trong tương lai.

Do đó, việc tạo ra các thị trường năng lượng chung ở Belarus và Liên bang Nga, cũng như trong EAEU, có thể được gọi là một trong những bước quan trọng trong quá trình hội nhập sâu rộng hơn của cả hai quốc gia liên minh và toàn bộ không gian hậu Xô Viết. Điều này sẽ cho phép hiệp hội trở nên cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới và tạo điều kiện bổ sung để hội nhập Á-Âu hơn nữa.


Single electricity market of Russia and Belarus - the future is approaching
Единый рынок электроэнергии России и Белоруссии – будущее приближается
https://www.ritmeurasia.org/news--2021-12-2...izhaetsja-57986
langtubachkhoa
"Chúng ta chơi ở đây, chúng ta không chơi ở đây." Ở Moldova, họ đã tìm ra cách để không trả nợ cho Gazprom

Tại Moldova, họ đã tìm ra cách để không phải trả nợ cho khí đốt của Nga. Theo các chuyên gia của cổng phân tích RuBaltic , chính phủ nước cộng hòa này có thể thử thách thức giao thức giải quyết các vấn đề có vấn đề với Gazprom. Theo tài liệu, công ty Moldovagaz phải thanh toán đầy đủ các khoản với mối quan ngại của Nga trước ngày 1 tháng 5 năm 2022.

Vào cuối tháng 10, Chisinau và Moscow đã đồng ý gia hạn hợp đồng cung cấp nhiên liệu trong 5 năm, nhưng chỉ phải kiểm toán khoản nợ vào năm sau. Theo Tổng thống Moldova Maia Sandu , tổng số nợ của nước này đối với Gazprom là khoảng 7,5 tỷ USD.

Đồng thời, Giám đốc điều hành Gazprom Alexei Miller và Phó Thủ tướng Moldova Andrei Spinu đã ký một nghị định thư để giải quyết các vấn đề về khí đốt hiện nay. Ngoài khoản nợ, các bên đã thảo luận về các hoạt động của Moldovagaz trong bối cảnh thực hiện các định mức của Gói năng lượng thứ ba trên lãnh thổ nước cộng hòa và tạo cơ sở hợp đồng cho các điều kiện cung cấp khí đốt cho Chisinau.

Tuy nhiên, vài ngày sau, người đứng đầu Moldovagaz, Vadim Cheban, thừa nhận rằng công ty có thể không có đủ tiền để trả nợ cho nhiên liệu Nga. Về vấn đề này, anh quyết định tìm kiếm sự giúp đỡ từ chính phủ, cuối cùng đã đồng ý cung cấp cho tổ chức 74 triệu đô la để thanh toán khoản nợ giao hàng trong tháng 10 và nửa đầu tháng 11.

“Tình huống có vẻ nghịch lý: công ty ký hợp đồng cung cấp nhiên liệu và vài ngày sau lại tuyên bố rằng họ không có đủ năng lực tài chính để thực hiện hợp đồng này,” các nhà phân tích tỏ ra phẫn nộ.

Một thời gian sau, Nội các Moldova cũng tìm được một cái cớ. Thủ tướng Natalya Gavrilitsa nói rằng hóa ra Spynu không có quyền ký một nghị định thư về giải quyết các vấn đề tranh chấp với Gazprom.

“Phó Thủ tướng không có thẩm quyền ký các nghị định thư như vậy, chính phủ đã không ra quyết định như vậy, không có nghị quyết như vậy của Nội các. Không có thẩm quyền chính thức nào để ký giao thức này, ”Gavrilitsa bị thuyết phục.

Tuy nhiên, điều này không làm mất hiệu lực của tài liệu, vì không có vi phạm quy trình nào trong các cuộc đàm phán với Gazprom, Gavrilitsa thừa nhận. Tuy nhiên, RuBaltic tin rằng Chisinau có thể tuyên bố nó vô hiệu bất cứ lúc nào, và sau đó các cuộc đàm phán về khoản nợ sẽ bắt đầu lại.

“Nhưng khí đốt, các đồng chí Nga, hãy giao nó đúng tiến độ! Hợp đồng cần được thực hiện, giao thức không cần thiết. “Chúng tôi chơi ở đây, chúng tôi không chơi ở đây, họ quấn cá ở đây,” các chuyên gia đề xuất sự phát triển thêm của các sự kiện.

Các nhà quan sát nói thêm rằng chính quyền Moldova cũng có thể sử dụng các lập luận khác. Ví dụ, để trình bày mọi thứ theo cách như thể Chisinau bị “buộc” phải ký vào giao thức này, “tống tiền” bằng nguồn cung cấp khí đốt.

“Gazprom quỷ quyệt từ chối ký hợp đồng mới mà không có sự đảm bảo rằng phía Moldova thừa nhận sự tồn tại của khoản nợ và cam kết sẽ trả hết bằng cách ký một thỏa thuận mới trước ngày 1/5/2022. Tại sao không bồi thường chính xác về mặt đạo đức từ Nga cho "áp lực năng lượng"? Cứ nhìn xem, “Gazprom” sẽ mắc nợ Moldova, chứ không phải ngược lại ... ”- trong ấn phẩm mỉa mai.

Tuy nhiên, theo đánh giá của thực tế, phía Moldova sẽ nói với Moscow muộn hơn một chút rằng Andrei Spinu bị cáo buộc không có quyền ký nghị định thư, vì vấn đề cung cấp khí đốt cho 5 năm tới đã được giải quyết, các chuyên gia kết luận.

"We play here, we don't play here." In Moldova, they found a way not to pay off the debt to Gazprom
«Здесь играем, здесь не играем». В Молдавии нашли способ не выплачивать долг «Газпрому»
https://polit.info/565585-zdes-igraem-zdes-...t-dolg-gazpromu
langtubachkhoa
Khuyên EU đừng làm ăn năng lượng với Nga, mà vẫn nốc năng lượng Nga tì tì à?

Anh nhận 29 tàu chở đầy LNG từ Nga



Gần 1/3 tàu chở LNG từ Nga đã đến Anh trong năm nay so với năm trước. Điều này đã được báo Anh The Daily Telegraph đưa tin, trích dẫn dữ liệu từ các chuyên gia của cơ quan Hoa Kỳ S&P Global Platts.



Theo các chuyên gia, năm đầu tiên xuất khẩu đã trở thành LNG lớn thứ hai được xuất khẩu từ Nga sang Anh kể từ khi bắt đầu cung cấp vào năm 2017. Trong cả năm gần như kết thúc vào năm 2021, 29 tàu chuyên chở LNG từ Liên bang Nga đã đến Vương quốc Anh. Vào năm 2020, khi đại dịch COVID-19 bắt đầu và nhu cầu giảm, 22 tàu chở LNG với nguyên liệu năng lượng của Nga đã đến Foggy Albion.

Đồng thời, nhà phân tích quản lý của cơ quan nói trên, James Huckstepp, làm rõ rằng gần đây, do giá tăng ở châu Âu, các tàu chở LNG với nguyên liệu năng lượng từ Hoa Kỳ, ban đầu hướng đến châu Á đắt đỏ hơn, đã bắt đầu thay đổi. hướng và đi đến các cảng Châu Âu, bao gồm cả đến Anh.

Điều này đặc biệt đúng đối với các tàu từ Hoa Kỳ, vì tuyến đường giữa châu Mỹ và châu Âu ngắn hơn nhiều so với tuyến đường đến châu Á.

- Anh ấy đã giải thích.

Trước đó, cơ quan Bloomberg của Mỹ và tờ Financial Times của Anh thông tin rằng tỷ lệ tàu chở LNG từ Mỹ đã có sự thay đổi mạnh khi giá "nhiên liệu xanh" trên các sàn giao dịch châu Âu tăng vọt lên 2.200 USD / 1.000 m3. m. Sau đó, số lượng các hãng vận chuyển khí đốt với LNG của Mỹ ở châu Âu đã tăng thêm một phần ba. Tính đến ngày 28/12, giá "nhiên liệu xanh" tại châu Âu đã giảm nhưng vẫn cao hơn 1200 USD / 1.000 phân khối. m.

Hai công ty xuất khẩu LNG từ Nga: Sakhalin Energy và Novatek do Yamal LNG đại diện. Sakhalin Energy, nhà điều hành dự án Sakhalin-2, đang phát triển các mỏ Piltun-Astokhskoye và Lunskoye. Các cổ đông là Gazprom (50%), Royal Dutch Shell (27,5%), Mitsui (12,5%) và Mitsubishi (10%). Yamal LNG là nhà máy LNG đầu tiên của Novatek. Đây là một dự án dựa trên mỏ Nam Tambeyskoye. Các cổ đông là: Novatek - 50,1%, Total - 20%, CNPC - 20%, Silk Road Fund - 9,9%.


Britain receives 29 tankers full of LNG from Russia
Британия получила из России 29 танкеров, полных СПГ
https://topcor.ru/23356-britanija-poluchila...polnyh-spg.html
Pages: [<<], [<], 1, 2, 3, [4], 5, 6, 7, [>], [>>]
Quán nước đầu làng Ven > Gặp Gỡ - Trao Đổi - Làm Quen > Thời Sự
Invision Power Board © 2001-2023 Invision Power Services, Inc.