[img]http://groups.msn.com/_Secure/ 0RwDoBBYWmDAUdCxANjsn8vjs6HTuYQu1pZF4Rzm0B6uwXMEDFlq7rE8TEYa0v2EhRFIXbM5BIKVGjF5
Jn6Sw0HBXzhs3NeRDZHX8uaXaYvY/quanambutthap.JPG?dc=4675402245998549548[/img]
Jn6Sw0HBXzhs3NeRDZHX8uaXaYvY/quanambutthap.JPG?dc=4675402245998549548[/img]
Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay ( chùa Bút Tháp-Hà bắc)
1. Mình bắt đầu vào đề bằng một kiệt tác điêu khắc mà có lẽ không một người Việt Nam nào lại không biết . Trên đây là bức tượng Quan Âm Nghìn Mắt nghìn Tay ở chùa Bút Tháp ( Hà Bắc). Đây có thể nói là một trong những tác phẩm điêu khắc Phật Giáo đẹp nhất thế giới. Bức tượng này được tạc bằng gỗ mít và được sơn son, thiếp vàng. Nhưng ta sẽ không phân tích về vẻ đẹp của nó mà sẽ nói về vấn đề khác.
Vậy ai là tác giả của kiệt tác này ?
Đằng sau bức tượng chỉ khắc vỏn vẹn có 5 chữ « Trương tiên sinh phụng khắc » . Rắc rối là ở chữ « phụng » này. Vì có thể hiểu là « dâng cúng » hoặc « tuân lệnh ». Ở nghĩa thứ nhất thì có thể hiểu là Ông họ Trương nào đó giầu có, đã bỏ tiền ra thuê người tạc bức tượng này để cúng vào chùa, còn nghĩa thứ hai mới là chính ông Trương tuân lệnh ai đó tạc bức tượng này. Nhưng căn cứ vào vô vàn các bia, tượng và đồ thờ cúng khác, cũng như tập quán văn hoá của dân ta thời đó ( khoảng giữa thế kỷ XVII 1650) thì thường họ chỉ khắc tên người nào bỏ tiền ra cúng vào chùa chứ không ai lại khắc tên người thợ được thuê làm ra đồ vật đó. Vì vậy đáng buồn thay ta có thể gần như chắc chắn là không biết tên người nghệ sĩ tài hoa nào đã tạo nên kiệt tác này. Tuy nhiên đấy là trong điêu khắc và kiến trúc tôn giáo – là lĩnh vực mà ta đã đạt được một số thành tựu có thể nói là không thua kém ai, ít nhất là trong khu vực - Chứ riêng về hội hoạ thì ta không khỏi ngạc nhiên và đau buồn khi thấy cái danh sách hoàn toàn trống vắng, hay nói như nhà nghiên cứu mỹ thuật Đào Hùng : « Chín thế kỷ phong kiến độc lập không để lại tên tuổi một hoạ sĩ nào ».
Nói tóm lại là Việt Nam thời phong kiến không có một nền hội hoạ đích thực tức là không để lại một tên tuổi hoạ sĩ cũng như một tác phẩm hội hoạ đích thực nào, ngoài một số tranh thờ cúng và tranh dân gian tuy đẹp, nhưng tầm cỡ cũng vẫn chỉ ở dạng «folklore» thôi và tất cả đều khuyết danh.
Nguyên nhân thiếu vắng của hội hoạ cổ Việt Nam là do đâu ? Nếu căn cứ vào những thành tựu đạt được gần đây thì hẳn là ta không thiếu hoạ sĩ tài ba thời cổ, mà có lẽ thiếu là thiếu cái nhìn thẩm mỹ vượt khỏi tầm « nghệ nhân » để vươn lên tầm « nghệ sĩ » - Tức là ta thiếu một sự đào tạo cơ bản - một trường mỹ thuật chẳng hạn.
Nguyên nhân thứ hai cũng quan trọng không kém đó là sự coi thường mỹ thuật hoặc không biết thưởng thức mỹ thuật của vua chúa cầm quyền thời xưa. Một chuyện đơn giản là vẽ chân dung các vì vua để lưu lại hậu thế mà không vị nào nghĩ đến.
Vì thế chẳng nói Đinh Tiên Hoàng hay Lý Thái Tổ xa xôi làm gì, ngay đến vua Gia Long cũng chả ai biết mặt rồng ra sao, dù hiện nay có lưu truyền một bức chân dung vẽ rất xấu nhưng không có gì bảo đảm đấy không phải là tranh rởm. Còn vua Quang Trung có hân hạnh được hoạ sĩ Thanh triều vẽ tặng một tấm chân dung khá đẹp, mặc võ phục, oai nghi trên yên ngựa, nhưng đáng tiếc đấy lại là Quang Trung rởm và tất nhiên đấy là tranh Tầu.
Tóm lại thì các vua nhà mình không quan tâm và có lẽ cũng chẳng hiểu gì về hội hoạ cả.
Tuy nhiên đến ngay thể loại tầm thường nhất là tranh sinh hoạt, tranh minh hoạ ta cũng chẳng có cái nào daté quá 300 năm. Sở dĩ ta chưa có phim lịch sử tầm cỡ, một phần vì vấn đề kinh phí và kỹ thuật, nhưng phần quan trọng không kém là phần trang phục, dàn cảnh. Ta không biết thời xưa ăn mặc ra sao, sinh hoạt thế nào. Trên sân khấu tuồng chèo, có thể trang phục tàm tạm, ước lệ - hay nói đúng hơn chiếu lệ, đại khái thế nào cũng được, nhưng trên phim ảnh không thể trang phục cẩu thả được, người ta cười chết. Còn dựa và văn bản thì sử sách ghi chép quá nghèo nàn và sơ xài. Dựa và các bức tượng thờ , chủ yếu chỉ biết được y phục của vua quan, thần thánh và cũng chỉ biết đến đời Lê-Mạc thôi, còn trước nữa không còn di sản để lại.
2. Nguyên nhân quan trọng nhất giải thích sự thiếu vắng của hội hoạ cổ Việt Nam , theo mình có lẽ được nghĩ đến từ câu chuyện sau đây. Có một lần mình phải dịch cho bọn Tây cụm từ « vẽ vời ». Chả là người mình cứ hay kêu « Ôi dào, vẽ vời » ! Tưởng dễ mà hoá khó phết. Nếu chỉ dịch mot à mot thì không sao, hoặc nghĩa bóng là embellissement , enjolivement thì chỉ có nghĩa là sự tô điểm, tô vẽ làm đẹp lên thôi, cũng không đúng với cái ý nghĩa mà người Việt nào cũng hiểu là làm một chuyện gì hão huyền, viển vông nên đành phải dịch là illusoirement và giải thích với nó là « thế đấy, dân tao nó coi vẽ là một chuyện gì hão huyền, viển vông ». Thằng này nó cười tỏ vẻ ngạc nhiên và thông cảm, nhưng qua ánh mắt mình biết chắc trong bụng nó hơi có ý khinh dân mình, nghĩ thật xấu hổ. Trong khi tụi phương Tây, ngay từ thời cổ Hy Lạp nó đã coi thơ, hoạ , nhạc là ba thứ nghệ thuật cao quí tinh vi bậc nhất, còn bọn Tầu, chả phải nói « thi trung hữu hoạ, hoạ trung hữu thi » nó có một nền hội hoạ cổ vĩ đại nhất thế giới với hàng nghìn tên tuổi và một phong cách độc đáo vô song.
Như vậy có thể nói, nguyên nhân quan trọng nhất làm hội hoạ Việt Nam không phát triển được là một thái độ không trân trọng và không biết thưởng thức của đa số người Việt . Từ vua chúa đến dân thường , không coi trọng mỹ thuật nên các nghệ sĩ nếu có tài cũng không sống được bằng tài năng của mình vì không có một môi trường nghệ thuật. Thảng hoặc có ai thuê vẽ hoặc nặn tượng cũng chả dám ký tên để lưu danh hậu thế. Nghệ sĩ điêu khắc hoặc hoạ sĩ cũng bị coi như thợ nặn, thợ vẽ như các ông thợ khác như thợ cầy , thợ cấy, thợ mộc, thợ nề v.v... và có lẽ không bằng vì « không có ăn mới chết chứ không có tranh không chết ! » « Ôi dào toàn chuyện vẽ vời ! », « Vẽ rắn thêm chân ! » « bánh vẽ » v.v..và v.v...( Số phận của các nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên sân khấu cũng không khá gì hơn : phường bát âm, phường tuồng, phường chèo, đào, kép, con hát, xướng ca vô loài ..thuộc hạng cùng đinh trong xã hội nhiều khi không bằng thằng mõ )
Trong khi ngó nhìn sang Trung Hoa láng giềng : thi, thư, nhạc, hoạ được vô cùng coi trọng. Vương Duy ( 699-759) được coi như ngồi chiếu đầu trong Đường Thi , đồng thời là đại danh hoạ phát minh ra trường phái Thuỷ Mặc - tiền thân của hội hoạ Ấn Tượng- làm đến Hữu Thừa Tướng, Lý Tư Huấn ( thế kỷ 7-8) được phong Đại tướng quân dưới triều Đường Minh Hoàng cũng đồng thời là Đại Danh Hoạ khởi xướng trường phái Thanh Lục Kim Bích, còn danh hoạ Triệu Cật, chẳng phải ai xa lạ chính là vua Tống Huy Tôn (1085-1125) người đã mở trường và viện bảo tàng mỹ thuật đầu tiên trên thế giới. v.v...
3. Cho mãi đến tận ngày nay những giai thoại sau đây vẫn được lưu truyền và nhiều khi còn được giảng dạy cho thiếu nhi coi như những tấm gương về sự « thông minh ».
* Trạng Quỳng thi vẽ với sứ Tàu.
Sứ Tầu rất giỏi vẽ, chỉ cần đánh 3 tiếng trống là vẽ xong một con vật, thách các quan Nam Triều thi vẽ. Chẳng ai dám ra. Quỳnh nhận lời. Vào thi, giám khảo đánh 1 tiếng trống, sứ Tầu cắm cổ vẽ. Quỳnh ngồi rung đùi, không thèm vẽ. Giám khảo đánh 2 tiếng trống, sứ Tầu chưa vẽ ra con gì. Quỳnh vẫn rung đùi. Đánh đến tiếng trống thứ 3, Quỳnh mới dúng cả 10 đầu ngón tay vào nghiên mực, rồi bôi loằng ngoằng thành 10 vệt dài trên giấy , sứ Tầu mới vẽ xong 1 con chim. Quỳnh lên nộp bài bảo đấy là 10 con giun --> thắng !
Lời bình : Thật đúng là bôi bác như giun ! thắng người bằng mẹo vặt mà tự hào được ru ? Sứ Tầu, dù sao cũng vẽ được một con chim cho ra hồn , còn thằng Quỳnh, thế cũng gọi là vẽ được ư ? Chẳng biết nên cười hay nên mếu ở câu chuyện này. Thôi thì an ủi, dù sao chú Quỳnh láu cá cũng phát minh ra trường phái "Thập Chỉ Pháp" !
* Mạc Đĩnh Chi đi sứ.
Mạc Đĩnh Chi được cử đi sứ sang nhà Nguyên. Trong buổi tiếp tân long trọng ở Sứ Quán, trên tường có treo rất nhiều tranh. Có một bức tranh lụa vẽ con chim sẻ đậu trên cành trúc, nét vẽ cực kỳ tinh xảo và sinh động đến nỗi Mạc Đĩnh Chi tưởng thật, dơ tay toan vồ con chim. Cả triều thần cười ồ. Biết là hố, nhanh như cắt, Mạc Đĩnh Chi nghĩ ngay ra một mẹo, liền tiện tay giật phắt bức tranh xuống trước con mắt kinh ngạc của quan khách rồi dõng dạc phán :
- Trúc là tượng trưng cho người quân tử. Tước là tượng trưng cho kẻ tiểu nhân. Cớ sao lại để kẻ tiểu nhân dẫm đạp lên mình người quân tử !? Vì trái với đạo lý thánh hiền, nên ta phải xé bỏ nó đi !
Nói rồi ông xé tan bức tranh vứt xuống đất, trước con mắt thán phục của mọi người. Nghe nói sau đó, bằng những hành động „ thông minh“ như thế, ông được vua tôi nhà Nguyên phong là „ Lưỡng Quốc Trạng nguyên“ .
Lời bàn : Nếu chuyện này mà có thật thì có thể khẳng định là không những dân trí ta kém mà "quan trí" của ta cũng quá kém. Nhưng mình không tin là Mạc Đĩnh Chi thực sự lại ngu dốt và thô lỗ đến như thế ?
Không biết kẻ ngu xuẩn nào bịa ra câu chuyện ngu ngốc này, lại có kẻ ngu dốt khác tiếp tục lưu truyền cho hậu thế mà không biết nhục ? Đường đường một ông Lưỡng Quốc Trạng Nguyên - tức là thuộc hàng đại trí thức thời xưa – mà không biết xem tranh, lỗ mỗ, trông gà hoá cuốc lại còn vụng chèo khéo chống, thất thố ngoại giao, thô lỗ, đang tay xé một bức tranh đẹp tuyệt như thế , thật là ngu hết chỗ nói.
Không biết ai có thể cười được nhỉ ? Mình thì khóc rưng rức cho sự dốt nát của ông trạng này, nếu là chuyện bịa thì khóc cho kẻ dốt nát nào đã bịa ra câu chuyện ngu xuẩn này.
Thử hỏi một đất nước, có những ông đại trí thức mà vẽ tranh như trạng Quỳnh và xem tranh như trạng Chi thì có giống ai không ?