Langven.com Forum

Giúp đỡ - Lục lọi - Dân l ng - Lịch
Full Version: Trên giá sách
Quán nước đầu làng Ven > Sáng Tác - Thảo Luận - Phổ biến kiến thức > Văn Học & Ngôn Ngữ
Pages: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25
Thị Anh
Toàn bộ những cái này do bác TLữ dịch, để hiểu 1 phần cách dịch thuật của các bạn văn nước ngoài. Ko phải phát biểu cảm tính, Sơmít ạ.



Jay Rubin gửi Gary Fisketjon và Philip Gabriel
(20.12.2005, lúc 5 giờ 23 phút sáng)

Tuần này tôi đang viết cho hai bạn từ Kyoto, Nhật Bản. Tôi đã ở đây từ tháng 6 đến giờ, tham gia một nghiên cứu chung về kịch Nō, một hình thức sân khấu đã tồn tại ở Nhật từ thời trung cổ. Bình thường tôi vẫn sống ở Cambridge, Massachusetts, và dạy về văn học Nhật ở đại học Harvard.

Từ thời còn ở cao học trong những năm 60 tôi đã tranh thủ nghiên cứu kịch Nō, nhưng năm nay thì được dành hết thời gian cho việc này. Hầu hết các nghiên cứu của tôi là về các nhà văn đã nổi lên trong giai đoạn đầu thế kỷ 20, và tôi rất ít quan tâm đến văn học đương đại Nhật Bản. Không biết tại sao, mỗi khi đọc thử bất kì một tác phẩm đương đại nào tôi cũng thấy nó mỏng mảnh và non nớt so với văn chương thời kỳ Meiji (1868-1912 , ta vẫn gọi là thời Minh Trị - ND) như của đại văn hào Soseki Natsume chẳng hạn.

Thế rồi, vào năm 1989, tôi đọc Haruki Murakami. Trước đó tôi chỉ hơi biết đến ông ta, như một kiểu văn sĩ thời thượng vẫn có hàng đống sách chất đầy các quầy ở mặt tiền các hiệu sách, và vẫn chưa có đủ can đảm đọc những cái chắc hẳn chỉ là những ba láp ngốc nghếch về bọn thiếu niên uống rượu say và rủ nhau nhẩy lên giường. Mấy tháng trước khi cuốn Cuộc rượt cừu hoang dại được ấn hành bằng tiếng Anh, một nhà xuất bản Mỹ đề nghị tôi đọc một tiểu thuyết của Murakami để xem nó có đáng dịch không. Họ đã đang đánh giá một bản dịch rồi, nhưng muốn có một ý kiến về nguyên tác. Cuốn tiểu thuyết ấy sau này được dịch là Mảnh đất thần tiên Luộc chín và Tận cùng của Thế giới, và nó đã cuốn ào tôi đi như một trận cuồng phong, đến nỗi trong suốt mười năm qua tôi chẳng tập trung vào được việc gì khác ngoài Murakami.

Tôi nói với nhà xuất bản ấy rằng họ nên làm cuốn ấy với bất kì giá nào, và rằng nếu họ không hài lòng về bản dịch mà họ đang xem xét thì họ nên để tôi dịch lại. Nhưng họ phớt lờ cả hai ý kiến ấy của tôi, và thế là mấy năm sau đó nhà xuất bản Kodansha mới cho ra được cuốn tiểu thuyết ấy, do Alfred Birnbaum dịch.

Sau nhiều năm tập trung vào văn chương hiện thực lặng lẽ và xám ngắt của Nhật Bản, tôi không thể tin lại có một nhà văn Nhật mạnh bạo và có trí tưởng tượng hoang dại đến như Murakami. Tôi vẫn còn nhìn thấy những giấc mơ sặc sỡ sắc mầu lan tỏa vào không trung từ những bộ xương sọ loài ngựa một sừng ở gần đoạn cuối của cuốn sách mỗi khi tôi nhớ lại lần đầu tiên đọc Mảnh đất thần tiên Luộc chín, và vẫn còn nhớ cảm giác nuối tiếc khi đã đọc hết trang cuối cùng và chợt nhận ra rằng mình không thể sống trong thế giới của Murakami lâu hơn nữa. Kể từ thời sinh viên còn mê mẩn Dostoievsky, chưa có nhà văn nào khiến tôi có phản ứng mãnh liệt như thế. Tôi kiếm tất cả những gì Murakami đã viết và bắt đầu chỉ đọc văn ông mà thôi.

Tôi đặc biệt thích các truyện ngắn của ông. Tìm được địa chỉ của ông trong thư viện, tôi viết cho ông, nói rằng tôi muốn dịch khoảng nửa tá truyện ngắn của ông. Đại diện lúc ấy của ông hồi âm, nói tôi cứ dịch đi. Tôi bèn gửi cho bà một truyện mà tôi thích nhất: “Tấn công hiệu bánh lần thứ hai”, và liền sau đó chính Murakami gọi dây nói cho tôi, hỏi tôi có chịu cho bản dịch ấy được đăng trên tạp chí Playboy hay không. Vẫn chỉ quen xuất bản các bài khảo cứu của mình cho độ mươi mười hai người đọc, tôi vui mừng chộp ngay lấy cơ hội ấy, mặc kệ những lăn tăn có thể có trong đầu mình về “triết lý” của tờ Playboy. Tôi mê tơi thấy mình có bài được đăng trên một ấn phẩm mà ngoài bìa có hình cả một đội áo tắm hai mảnh của Thụy Điển! Minh họa cho truyện dịch đầu tiên ấy của tôi cũng là một tuyệt tác – một bức vẽ theo phong cách ukiyoe (tranh khắc gỗ truyền thống của Nhật Bản – ND) cảnh nhà hàng McDonald bị cướp. Tờ The New Yorker cũng nhận đăng bản dịch truyện “Con voi biến mất” của tôi cùng thời gian ấy.

Sau đó ít hôm thì Murakami làm tôi ngỡ ngàng khi ông gọi dây nói cho tôi từ Princeton. Có lẽ tôi là giáo sư văn học Nhật duy nhất ở Mỹ đã không biết là ông đang ở đó. Ông nói sẽ tham gia cuộc chạy đường dài Boston 1991 vào tháng Tư, và thế là ngay hôm sau cuộc chạy ấy chúng tôi đã gặp nhau tại Cambridge, khi ông đến dự buổi lên lớp của Howard Hibbett về bản dịch truyện “Tấn công hiệu bánh” của tôi, lúc ấy vẫn chưa xuất bản. Sau này chúng tôi thành hàng xóm của nhau ở Cambridge và gặp nhau rất nhiều. Tôi đã làm ông phát điên một vài lần khi đòi ông phải giải thích một số đoạn quá cô đọng hoặc chỉ cho ông thấy những chỗ không nhất quán mà các biên tập viên người Nhật của ông đã bỏ sót.

Vì Alfred có vẻ là người có toàn quyền dịch các tiểu thuyết của Murakami (bản dịch cuốn Rượt cừu rất sống động của ông có tác động lớn khiến Murakami được biết đến ở Hoa Kỳ), tôi được Murakami cho phép dịch những truyện nào mà Alfred không quan tâm đến. Đối với tôi, đó lại là những truyện hay nhất, và Alfred đã nhỡ đò trong việc này. Những truyện anh ấy thích thì tôi lại không thích. Hầu như không bao giờ chúng tôi đề nghị dịch cùng một truyện cả. Thật lạ lùng. Khi Gary Fisketjon ở nhà xuất bản Knopf nhận trách nhiệm tổ chức bản thảo cho một tuyển tập truyện ngắn, anh ấy đọc những truyện mà Alfred và tôi đã riêng biệt gửi đến, rồi lựa chọn chúng hoàn toàn theo thị hiếu riêng của mình. Lạ hơn nữa là những người viết điểm sách cũng hầu như luôn luôn chỉ nhắc đến toàn những truyện tôi dịch, hoặc toàn những truyện Alfred dịch, chứ không bao giờ nhắc đến cả hai người dịch. Rõ ràng là đã có một thứ linh tính lạ lùng nào đó xui khiến Gary trong khi anh tuyển chọn và kết hợp cả thị hiếu của Alfred và của tôi, rồi khi tham khảo ý kiến người đọc cũng lại thấy thị hiếu nào cũng có người ưa thích cả.

Nhân chuyện này tôi nghĩ đến câu hỏi của Phil. Chắc chắn là cái chất nhẩy nhót uốn éo trong các tác phẩm ban đầu của Murakami đã không còn nữa khi ông viết Mảnh đất thần tiên Luộc chín. Có lẽ nếu lúc đầu mà tôi đọc những sách khác của ông, kể cả cuốn Rừng Nauy (tôi chỉ mới hiểu được câu chuyện này ở mức rất sơ lược), thì tôi đã không thích ông đến thế. Sở dĩ tôi đã có thể thích hầu như tất cả sách của ông là bởi vì biết rằng ông là tác giả của Mảnh đất thần tiên Luộc chín – một cuộc chu du tinh thần ngoạn mục mà âm hưởng của nó ta có thể nghe thấy trong tất cả những tác phẩm khác của ông. Tôi vừa dịch xong tập truyện ngắn của ông về trận động đất Kobe, có nhan đề Con cái Thượng đế ai cũng biết nhẩy múa, có lẽ là những câu chuyện gần như nề nếp nhất của ông, viết với giọng kể trầm lắng ở ngôi thứ ba. Đó là những văn phẩm tinh tế tuyệt vời, đề cập đến trận động đất như thể những rung động xa xôi trong cuộc sống của con người giữa thập kỷ 90, mong manh như cảm giác lúc ta bắt gặp một cái gì đó và tưởng chừng như đã gặp rồi trong quá khứ (một đề tài rất hay gặp ở ông). Thật ra không thể gọi tất cả những truyện ngắn này là “nề nếp” – nhất là truyện “Siêu Ếch cứu Tokyo”, là câu chuyện tôi thích nhất.

Còn câu hỏi sau của Phil, có lẽ Gary sẽ trả lời chăng? Và tiện thể cho mọi người biết luôn những suy nghĩ của bạn khi tổ chức bản thảo tập Con voi biến mất nữa được không?

Phil này, tôi hoàn toàn không hiểu được tại sao Murakami lại đột biến lừng lẫy ở phương Tây như thế. Lúc đầu, tôi cảm thấy như ông ta viết riêng cho tôi đọc vậy, và tôi vẫn nghĩ thị hiếu kì cục của mình rất khó chia sẻ được với ai. Không phải là tôi chọn ông sau khi đã nghiêm chỉnh đọc qua tất cả những tác giả Nhật hiện nay và kết luận rằng ông là hay nhất. Tôi chỉ biết rằng sẽ không thể tìm thấy một nhà văn nào khác trên khắp thế giới này có thể đến với tôi một cách trực tiếp và riêng tư đến như vậy, và tôi cứ thế nhẩy thẳng vào thế giới của ông, không một chút đắn đo. Làm sao lại có nhiều độc giả khác đến thế cũng cảm thấy như tôi? Murakami thâm nhập trí não ta và làm những chuyện kì cục trong đó. Tôi nhớ một giây phút Murakami mà tôi đã có sau khi dịch một đoạn trong Biên niên Chim Dây Cót, trong đó con bé Nutmeg trèo lên lòng người cha làm nghề thú y của nó và ngửi thấy mùi của tất cả những con thú đã ám trên người ông từ vườn thú về đến nhà. Đột nhiên, tôi hát váng lên “Oh, My Papa, To Me He Was So Wonderful.”


Thị Anh
Philip Gabriel gửi Jay Rubin và Gary Fisketjon
(20.12.2000, lúc 12 giờ 17 phút chiều)

Phil đây. Tôi có mấy câu hỏi Jay: Một sinh viên cao học của tôi viết luận văn về cuốn Biên niên Chim Dây Cót, tôi không nhớ hết các chi tiết, nhưng cô ta có nói đến một vài chương trong nguyên bản tiếng Nhật đã bị sửa đổi rất nhiều hoặc bỏ hẳn không dịch trong bản tiếng Anh. Có đúng như vậy không, và nếu đúng thì vì những lí do gì? Một câu hỏi nữa là tôi nhớ đã đọc ở đâu đó rằng khi Alfred dịch cuốn Mảnh đất thần tiên Luộc chín, Murakami đã đề nghị anh ấy sửa đổi hoặc bổ sung nhiều đoạn cho bản dịch tiếng Anh; không biết cuốn Biên niên Chim Dây Cót có như vậy không?

Câu hỏi trên có liên quan đến một trong nhiều vấn đề tôi đã gặp phải trong khi dịch các tác phẩm văn học hiện đại của Nhật Bản: vấn đề biên tập ở Nhật. Tôi muốn nói là nhiều lần tôi đã thấy những chi tiết không nhất quán, những đoạn trùng lặp, và những đoạn phi lôgic trong các văn bản gốc tiếng Nhật mà tôi tin chắc rằng một biên tập viên Mỹ nhất định sẽ phát hiện và sửa chữa. Hồi mới dịch một cuốn tiểu thuyết Nhật (không phải của Murakami), nhiều lúc tôi cảm thấy mình vừa dịch vừa phải hiệu đính. (Khổ một nỗi là họ không tính tiền hiệu đính cho mình!) Biên tập của tôi nói một câu mà tôi nhớ mãi, rằng sách của các nhà văn thời thượng Nhật Bản đều được in vội và biên tập rất ít (so với tiêu chuẩn của ta), và biên tập viên Nhật có vai trò rất kém chủ động trong việc đề xuất chỉnh sửa văn bản. Cho nên đến lúc những người như chúng ta bắt tay vào dịch các văn bản ấy, chúng ta – và các biên tập viên của chúng ta – đều phải nhào nặn chúng cho vừa với quan niệm của chúng ta về một văn bản lôgic và chặt chẽ. Có lẽ những văn sĩ như Murakami đã biết rõ chuyện này nên khi sách của họ sắp được dịch, họ mới tính đến chuyện chỉnh sửa chỗ này chỗ kia chăng? Tôi thì không thấy đây là vấn đề lớn với các sách của Murakami, trừ một số trường hợp trùng lặp câu chữ ở đoạn này đoạn kia – nghĩa là cùng một ý mà có hai ba câu diễn đạt theo những cách khác nhau. Tôi đã gặp những trường hợp này khi dịch cuốn Phía nam biên giới, và đã quyết định bỏ không dịch một số câu trùng lặp để văn bản chặt chẽ hơn.

Tất nhiên, chuyện này dẫn đến một vấn đề lớn hơn là vấn đề “bản địa hóa” các văn bản ngoại quốc, “trung tính hóa” các dị biệt, vân vân. Chúng ta có thể loại bỏ hoặc giảm nhẹ các khác biệt này đến mức độ nào để người đọc phương Tây có thể thưởng thức được cuốn sách? Có lẽ đây không phải là vấn đề lớn đối với hai tác giả đột biến lẫy lừng trong thập kỷ 90 là Murakami và Yoshimoto. Mà có thể đó là một phần lí do tại sao họ lại hấp dẫn người đọc phương Tây được đến thế. Nói cách khác, liệu có thể nói hai nhà văn này không đặc biệt “Nhật Bản” như các nhà văn khác ở quê hương họ và vì vậy mà họ dễ được tiêu hóa hơn ở phương Tây? Tôi còn nhớ người biên tập của tờ The New Yorker cho truyện ngắn dịch đầu tiên của tôi, chuyện “Vựa lúa bốc cháy”, đã thêm ba chữ “here in Tokyo” (ở đây, tại Tokyo) vào một câu ở ngay đoạn đầu của câu chuyện (tôi nhớ câu ấy như sau: “Tôi đã gặp cô ta trong một bữa liên hoan ở đây, tại Tokyo”). Theo lời biên tập viên ấy thì phải thêm mấy chữ ấy vào, vì người đọc chuyện đó của Murakami có thể không biết đó là chuyện Nhật Bản, và ta nên gợi cho họ biết điều đó ở ngay đoạn mở đầu.

Một câu nữa muốn hỏi Jay: Bạn nghĩ thế nào về cuốn Cục cưng Sputnik với tư cách là một tiểu thuyết?

Còn đây là mấy câu muốn hỏi Gary: những sinh viên của tôi nghiên cứu về Murakami thường thắc mắc không biết tại sao cuốn Rừng Nauy mãi mới được xuất bản ở Mỹ, và tôi không biết phải trả lời thế nào. Một ấn bản ở Mỹ được tính toán thời điểm như thế nào? Một câu hỏi nữa là: bìa các sách của Murakami được quyết định như thế nào? Ví dụ như bìa cuốn Sputnik có hình ảnh đối xứng nhau như soi gương, có phải là muốn mô tả bản chất bị “phân lập” của Miu hoặc là của Sumire chăng? Mọi người thường hỏi tôi về ý nghĩa của những gì có ngoài bìa sách như thế...


Jay Rubin gửi Gary Fisketjon và Philip Gabriel
(20.12.2000, lúc 8 giờ 43 phút tối)

Việc cắt xén cuốn Chim Dây Cót là cả một vấn đề phức tạp. Càng xem xét việc đó cũng như việc chỉnh sửa văn bản ta càng thấy rằng Murakami không có một bản gọi là “chính thức” cho bất kì cuốn sách nào của ông. Cuốn nào cũng vậy, rất lâu sau khi in rồi ông vẫn còn sửa đi sửa lại. Murakami khiến tôi nhớ đến họa sĩ Willem de Kooning, người thường đi theo tranh của mình đến phòng trưng bày và sửa đổi nó ngay ở chỗ đã treo.

Hầu hết những đoạn cắt bớt trong cuốn Chim Dây Cót là do tôi quyết định. Nhưng tôi chỉ làm việc đó sau khi nhà Knopf nói với Haruki rằng cuốn ấy quá dài và nhất định là phải cắt đi ngần này ngần ấy chữ (tôi nhớ là khoảng 25 ngàn chữ). Sợ rằng họ sẽ thuê một ai đó có thể làm hỏng mất cuốn tiểu thuyết, và với một niềm tin điên rồ rằng mình mới là người biết rõ từng con chữ của cuốn sách ấy, có khi còn hơn cả chính tác giả, sau khi đã dịch cả ba tập dầy cộp của nó, tôi đã quyết định ngăn chặn thảm họa bằng cách nộp cho Knopf hai bản dịch của mình: một bản đầy đủ với một bản đã cắt bớt. Knopf chấp nhận gần như nguyên xi bản đã cắt bớt của tôi (và chắc chắn đã tiết kiệm được khối thì giờ và tiền bạc, vì cũng như Phil, người ta không bao giờ trả tiền biên tập cho tôi).

Vì vừa mới viết xong tập 3, Haruki cảm thấy không thể cắt xén được gì ở tập này. Nhưng với tập 1 và tập 2 thì ông có đánh dấu nhiều đoạn để cắt – nhiều đoạn ngắn thôi và có gộp cả lại cũng chưa đủ được số chữ phải cắt. Trong bản dịch của mình, tôi đã cắt hầu hết những đoạn ấy, nhưng không phải tất cả. Có một số đoạn mà tôi cho là quan trọng không thể cắt. Sau đó tôi gửi bản dịch đã cắt cho ông đọc. Sau này, khi cuốn đó được tái bản ở Nhật dưới dạng bìa mềm, tôi thấy Haruki đã cắt nhiều đoạn (chứ không phải là tất cả) mà ông đã đề nghị cắt ở bản dịch. Vậy là nguyên tác tiếng Nhật đã khác nhau từ ấn bản bìa cứng sang ấn bản bìa mềm.

Bản tiếng Anh của nhà xuất bản Harvill cũng lại khác, với lối đánh vần và diễn đạt hoàn toàn theo kiểu Anh chứ không phải kiểu Mỹ. Dù sao thì tôi vẫn nghĩ rằng nếu Chim Dây Cót vẫn được người ta đọc và ưa thích sau 50 năm nữa và trở thành một tác phẩm văn học kinh điển thì có lẽ người ta sẽ muốn có một bản dịch đầy đủ. Lúc ấy, các học giả tha hồ mà chửi rủa Jay Rubin vì đã làm thịt nguyên tác như thế nào.

Còn về các biên tập viên ở Nhật thì Phil nói đúng đấy: họ không biên tập theo kiểu nhà Knopf hoặc tờ The New Yorker vẫn thường làm đâu.


Thị Anh
Jay Rubin gửi Gary Fisketjon và Philip Gabriel
(20.12.2000, lúc 10 giờ 21 phút tối)

Xin lỗi lần trước đang viết dở thì có việc phải đi, vẫn biết là chưa trả lời hết mọi câu hỏi.

Về cuốn Sputnik. Tôi nghĩ ta lại trở lại vấn đề thị hiếu. Chưa cần đi sâu vào chi tiết, nhưng tôi chỉ thích mỗi đoạn mở đầu tuyệt vời của nó mà thôi. Nó có quá nhiều cái chưa đọc đã có thể đoán trước được rồi. Bản thân Murakami cũng nhận rằng không phải ai cũng thích tất cả những gì ông viết.

Về chuyện sinh viên phát hiện có hàng chương liền bỏ không dịch trong cuốn Chim Dây Cót, thì đúng là như vậy. Tôi cảm thấy rằng Tập 3, ra đời một năm sau Tập 1 và Tập 2, đã khiến cho nhiều phần trong đoạn kết của Tập 2 trở nên chẳng có ý nghĩa gì nữa, và vì nhà xuất bản Mỹ đang yêu cầu phải cắt thật nhiều, nên đã nghĩ rằng đó là phần đáng bỏ nhất. Tôi vẫn cho rằng bản dịch tiếng Anh chặt chẽ và sạch hơn nguyên tác, nhưng cũng biết rằng chính sự chặt chẽ ấy có thể bị coi là xuyên tạc nguyên bản, là Mỹ-hóa một tác phẩm nghệ thuật Nhật Bản. Gì thì gì, tôi đã rất thích thú khi làm việc đó. Và nó phức tạp hơn tôi tưởng rất nhiều. Có lẽ bây giờ tôi cũng khó lòng tái tạo được các công đoạn của công việc ấy.

Câu hỏi của Phil với Gary về bìa sách làm tôi nhớ lại trường hợp của cuốn Chim Dây Cót. Knopf đã thiết kế một trang bìa tuyệt cú cho cuốn này, với hình một con chim máy chạy dây cót mầu sắc rất đẹp in trên vỏ bọc ngoài, một bộ dây cót bằng nhựa trong suốt ép lên trên, mặt bìa cứng cũng có in hình bộ dây cót ấy, rồi mô-típ cơ khí hình dây cót có mặt ở khắp nơi, kể cả số trang cũng xoay tròn quanh mép giấy, vân vân và vân vân. Hình như cái bìa ấy có được một giải thưởng gì đó (mặc dù tôi không được ai thông báo trực tiếp chuyện này). Ngay lúc đầu tôi đã nói với nhà xuất bản rằng mặc dù tôi rất thích cái bìa đang được thiết kế như thế, nhưng có một đoạn trong cuốn sách đã nói rõ là chim dây cót không phải là một thứ đồ chơi lên dây cót thật, mà là ý tưởng về tình trạng “bước chân đi cấm kì trở lại”. Muốn biết chim dây cót là gì thì phải đọc cuốn sách đó, cho nên có lẽ tôi không nên nói ý nghĩ của mình ra đây. Tuy nhiên, tôi có thể nói rằng nó không phải là một thứ đồ chơi cơ khí, không phải là một thực thể vật chất nào cả, hoặc chí ít thì nó là một thứ vô hình: nó tồn tại chỉ như một tiếng kêu mà thôi.


Jay Rubin gửi Gary Fisketjon và Philip Gabriel
(9.1.2001, lúc 8 giờ 22 phút tối)

Một vài ý muốn nói thêm về việc dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Anh: nói chung, người Nhật có một cảm thức về các món ăn tinh tế và nhậy cảm hơn đại đa số người Mỹ. Số lượng các chương trình hướng dẫn nấu ăn trên TV vào những giờ cao điểm ở Nhật Bản thật đáng kinh ngạc. Cho nên khi đọc đến đoạn một nhân vật của Murakami làm một món bánh kẹp trứng với rau thôi chẳng hạn, cảm giác của một độc giả Nhật thể nào cũng khác với cảm giác của một độc giả Mỹ. Không có cách gì có thể truyền đạt cái ngữ cảnh văn hóa liên quan đến cái bánh kẹp ấy trong một bản dịch, trừ phi phải dùng đến những chú thích mang tính học thuật, mà những chú thích kiểu này có thể chỉ làm hỏng hứng thú của người đọc mà thôi. Cho nên ta chỉ còn cách cho nhân vật ấy làm cái bánh kẹp ấy bằng tiếng Anh và mường tượng rằng nó cũng không đến nỗi khác nhau đến thế. Nguyên chuyện trong tiếng Nhật người ta viết từ “sandwich” bằng lối phiên âm chuyên dùng để truyền đạt những từ ngoại quốc, rồi chuyện người Nhật đọc từ trên xuống dưới và thu nhận từng chữ của họ theo kiểu đó, chuyện chữ “cắt” trong tiếng Nhật có hình một thanh gươm; tất cả những chi tiết ấy của hệ thống văn tự Nhật Bản là rất lạ nhưng lại chỉ lạ và thú vị với những người ngoại quốc học tiếng Nhật thôi chứ chẳng có gì lạ hay thú vị với người Nhật. Như tôi đã nói rõ trong cuốn Tìm hiểu tiếng Nhật (nhà xuất bản Kodansha International), ngôn ngữ Nhật không được xử lí ở một bán cầu não nào cả mà là ở khuỷu tay bên trái, khiến cho các tác phẩm văn học Nhật có một phong cách “can-xi hóa” hoặc “xương hóa” ở một mức độ nào đấy; nhưng chưa có dịch giả nào tìm được cách truyền đạt cái phong cách này sang một ngôn ngữ khác. Ngôn ngữ Nhật khác ngôn ngữ Anh đến nỗi – ngay cả khi nó được dùng bởi một nhà văn Mỹ hóa cao độ như Murakami – công việc dịch thuật văn học theo đúng nghĩa của từ này là không thể làm được, và những xử lí chủ quan của người dịch nhất định phải đóng một vai trò rất lớn. Những xử lí ấy là TỐT. Chúng bao hàm một quá trình xét hỏi nghiêm khắc và liên tục về ý nghĩa của văn bản. Điều mà chúng ta ghét nhất là một người dịch tự cho mình chỉ là một phương tiện thụ động chuyển một mớ các cấu trúc ngữ pháp này sang một mớ các cấu trúc ngữ pháp kia. Lúc ấy ta sẽ chỉ có một mớ rác ngớ ngẩn chứ không phải văn chương nữa.

Thị Anh
Philip Gabriel gửi Gary Fisketjon và Jay Rubin
(9.1.2001, lúc 8 giờ 22 phút tối)

Phil đây. Tôi nghĩ ý kiến của Jay về đồ ăn rất thú vị. Tôi nhớ đã đọc một bản dịch (có phải của Jay không nhỉ?) trên tờ The New Yorker mấy năm trước, có mở đầu bằng cảnh các nhân vật đang nấu nướng các món ăn Nhật. Tôi vẫn nhớ là tên các món ăn ấy đều không dịch mà chỉ phiên âm thôi (ví dụ miso shiru...). Khi gặp những từ ngữ mang ý nghĩa văn hóa đặc thù, tôi nghĩ người dịch có 3 lựa chọn: để nguyên chúng như vậy, thêm một vài lời giải thích đơn giản, hoặc tìm một từ tiếng Anh nào tương đối đồng đẳng. Chẳng hạn khi dịch một tiểu thuyết của Osamu Dazai, Donald Keene đã chọn phương án thứ ba – ông dịch từ shochu – một loại rượu mạnh của Nhật, là “gin”. Nhân tiện cũng xin nói là tôi thì không muốn dùng phương án ấy. Ví dụ khi dịch Sputnik, có đoạn nhân vật Sumire ngồi ăn món “Mont Blanc” trong một tiệm càphê ở Tokyo. Lúc đầu tôi cứ để nguyên là “Mont Blanc”, nhưng Murakami lại sợ là người đọc phương Tây sẽ tưởng cô ta đang ăn một cái bút máy đắt tiền chứ không phải một loại bánh ngọt, cho nên chúng tôi quyết định dịch thành “bánh ngọt” chung chung. Đây không phải là giải pháp lí tưởng, vì nó làm mất đi một chút chất cụ thể đặc biệt của nguyên tác, nhưng nó cũng ngăn chặn nguy cơ bị hiểu lầm. (Nhân vật Sumire là một nhà văn, lại hơn điên điên, nên cũng có thể cô ta gặm cả bút máy thật thì sao? Đùa vậy thôi nhé...) Một ví dụ nữa gần đây hơn là từ truyện “Người ăn mèo” tôi dịch cho The New Yorker. Trong truyện ấy, hai nhân vật đang ăn sáng tại một “Royal Host” ở Tokyo. Tôi cũng để nguyên từ tiếng Anh ấy như trong nguyên tác. Nhưng Murakami lại nghĩ người Mỹ không biết gì mấy về dây nhà hàng này ở Nhật, và đề nghị tôi dịch cái tên riêng ấy thành “nhà hàng Denny”. Chúng tôi nhất trí như thế. Thật ra, Royal Host là một dây nhà hàng ăn uống khá lịch sự, thường có ở các sân bay lớn và nhiều nơi khác, cao cấp hơn Denny’s một bậc, tôi nghĩ vậy. Có thể coi đây là một ví dụ về việc tìm một “đồng đẳng tương đối” trong khi dịch.

Những chi tiết mang ẩn dụ văn hóa trong văn bản bao giờ cũng là một thách thức đối với người dịch. Một phần là vì người phương Tây đọc văn học Nhật đều muốn học được cái gì đó ở nền văn hóa khác lạ này, nhưng nếu cứ phất cờ báo hiệu về những chi tiết này rồi chất đống vào đó những lời chú giải thì lại làm cho việc đọc ấy bị ảnh hưởng khác hẳn đi; nói cách khác là nếu làm vậy thì người đọc phương Tây sẽ phải mất thời giờ và tâm trí vào những chi tiết mà người đọc Nhật Bản sẽ chỉ lướt nhanh qua mà thôi. Một ví dụ nữa về chuyện này là việc dịch các từ ngữ liên quan đến nội ngoại thất của nhà ở Nhật Bản. Tôi nhớ đã phải mất khá nhiều thời gian tìm cách dịch từ engawa trong một truyện ngắn của Yoko Ogawa. Từ này có nghĩa đại khái là một kiểu hiên có mái che, nhưng trong truyện thì nhân vật lại đang bỏ thõng hai chân của cô ta xuống đất từ cái engawa ấy, cho nên khó có thể dịch nó thành “thềm” hoặc “hiên nhà” như vẫn thường có ở phương Tây, nhất là nơi tôi đã lớn lên. Trong cuốn tiểu thuyết của Senji Kuroi mà tôi vừa dịch có nhan đề là Cuộc sống ở cuối đường, rất nhiều chi tiết về nội thất đã khiến cho việc dịch rất khó nhọc. Có nhiều lúc tôi đã nghĩ thôi cứ cho in đại mấy cái ảnh chụp hoặc bản vẽ một ngôi nhà Nhật vào đó rồi chú thích rằng: đấy, quí vị nghiên cứu chúng đi rồi đọc tiếp! Ngay cái khái niệm “cuối đường” cũng rất khác nhau giữa Nhật Bản và phương Tây. Cuối đường trong cái khu phố mà Kuroi mô tả là một nơi chật hẹp tắc nghẽn, còn ở Mỹ thì thường vị trí cuối đường trong một khu nhà lại là một vị trí ai cũng thèm. May là tôi được phép viết mấy lời của người dịch ở đầu sách nên mới có cơ hội làm rõ một số những chuyện như thế. Việc để trống mấy dòng giữa các phần trong từng chương của Sputnik có nhiều lúc bất thường, và đối với người đọc phương Tây thì những khoảng trống ấy có vẻ không nên có. Nhiều biên tập viên thường đề nghị bỏ các khoảng trống ấy giữa hai phần có liên quan lôgic đến nhau nhiều hơn. Nhưng nói chung tôi không chịu như vậy. So sánh những khoảng trống ấy với các khoảng khắc “trống” trong phim của đạo diễn Ozu thì có vẻ lọc cọc quá, nhưng rõ ràng có một tương tự giữa hai giải pháp này. Những khoảng trống ấy cho người đọc được dừng lại và có được một khoảng khắc để suy ngẫm. Bỏ chúng đi, theo ý tôi, sẽ là một ví dụ của việc “bản địa hóa” quá trớn một văn bản ngoại lai. Nói cách khác, những khoảng trống ấy có ở chỗ của chúng là đều có lí do, vậy ta hãy suy nghĩ về cái lí do ấy trước đã chứ không nên nhắm mắt phản ứng theo những gì vẫn quen thuộc với ta. Trong một bài viết rất hay về dịch thuật nhiều năm trước đây, Edward Fowler (Giáo sư, Chủ nhiệm khoa Nghiên cứu ngôn ngữ và văn học Đông Á tại Đại học California ở Berkeley. Bài viết này có nhan đề “Rendering Words, Traversing Cultures: On the Art and Politics of Translating Japanese Literature”, đăng trên tờ Journal of Japanese Studies, tập 17, số ra mùa Đông 1991 – ND) có nói một ý rằng, khi dịch một ngôn ngữ như tiếng Nhật sang tiếng Anh, chớ nên chỉ tìm cách diễn đạt văn bản Nhật ấy sao cho khít với những gì tiếng Anh có thể diễn đạt được, mà ta nên tìm cách làm sao để quá trình dịch ấy làm phong phú thêm khả năng diễn đạt của tiếng Anh.

Về chuyện sử dụng một hệ thống văn tự hỗn hợp trong tiếng Nhật và những hiệu ứng của nó vào người đọc, tôi đồng ý với Jay rằng về cơ bản đó không phải là một vấn đề cần phải giải quyết. Nhưng có một chi tiết mà tôi vẫn muốn nêu ra ở đây, đó là sự khác nhau trong thứ tự từ của tiếng Nhật và tiếng Anh. Tôi đã dịch văn của Toshio Shimao, người có khuynh hướng viết những câu dài xoắn xuýt quanh một số quan điểm khác nhau trước khi đi đến một kết luận thỏa đáng. Khi dịch những câu này, tôi thấy tiếng Anh có khuynh hướng đảo ngược mọi sự vật, làm lộ tẩy mất cái mệnh đề sắc sảo nhất vốn luôn được trì hoãn trong tiếng Nhật. Hiện nay tôi vẫn đang phải đánh vật với hiện tượng này khi dịch tiểu thuyết của Kenzaburo Oe.


Gary Fisketjon gửi Philip Gabriel và Jay Rubin
(16.01.2001, lúc 2 giờ 14 phút chiều)

Tôi là Gary Fisketjon, biên tập của Haruki tại nhà xuất bản Knopf (bắt đầu từ tập Con voi biến mất, ấn hành mùa xuân năm 1993) và, từ nhiều năm trước đó đã là người hăm hở đọc ông mỗi khi sách của ông xuất hiện bằng tiếng Anh (kể cả những cuốn sách dịch nhỏ xíu cho sinh viên Nhật học tiếng Anh). Tôi không thể nhớ đã tự mình phát hiện ra ông hay là qua quan hệ của ông với Ray Carver, người bạn thân của tôi mà sách đã được Haruki dịch ra tiếng Nhật. Đại khái đó là vào giữa thập kỷ 1980. Trước ngày xuất bản cuốn Cuộc rượt cừu hoang dại thì chúng tôi có dịp gặp mặt nhau. Chúng tôi nói rất nhiều về các tác phẩm của Ray, và tôi thú nhận rằng mình rất khâm phục những tiểu thuyết của chính Hakuri và rất mong đọc những truyện sắp ra nữa. Còn Haruki thì nói cuốn tiểu thuyết trước đó của ông thật ra chưa được hay lắm, và cả cuốn sắp ra cũng vậy, nhưng có thể là cuốn sau đấy thì...

Phải nói là mối quan tâm của tôi về Haruki bắt nguồn từ một niềm say mê tuy nghiệp dư thôi nhưng rất mãnh liệt đối với văn học và văn hóa Nhật bản trong mấy năm ở Đại học Williams, nơi tôi được học giáo sư Peter Frost, một người thầy hướng dẫn tuyệt vời trong lĩnh vực này. Tôi dùi mài nghiên cứu ba tác giả vẫn được gọi là Tam Đại của văn học Nhật Bản (Junichiro Tanizaki, Yasunari Kawabata, và Yukio Mishima) và bị Mishima hớp hồn một cách rất tự nhiên. Tôi bỏ ra cả 6 tháng trời viết một bài rất dài về tác giả này. Vậy là tôi đã được vỡ lòng văn học Nhật từ giữa những năm 70. Và khi mới đọc Murakami, tôi đã cảm thấy rất rõ – và nay cũng vẫn thế – là ông xứng đáng được kế tục hàng ngũ những văn sĩ xuất sắc và lừng danh kia.

Rồi thì, đến 1986, lúc tôi đang chủ trì ban tu thư của nguyệt san Atlantic và rất muốn xuất bản sách của Haruki thì ông lại đang quan hệ với nhà Kodansha (mà tôi thì không đi săn trộm văn sĩ bao giờ) thành thử tôi chỉ là một người bạn đứng ngoài thôi, và đành chỉ biết tranh thủ mọi cơ hội để mọi người biết rằng chúng ta đang có một nhà văn lớn sống cùng thời với mình. Năm 1990, tôi về với nhà xuất bản Knopf, và sau đó ít lâu thì Haruki cũng vậy, và thật dễ hiểu là tôi đã trở thành biên tập của ông. Chuyện là vậy.


Thị Anh
Một chú thích cho lời Philip nói rằng chủ bút tạp chí ZYZZYVA đã tiếp xúc với anh ấy về chuyện Haruki: Ray Carver đã có quan hệ với chính tạp chí này, vì vậy không biết đó có hoàn toàn là ngẫu nhiên không, và không biết là gà nào nở từ trứng nào (vì Raymond Carver nên tạp chí này biết đến Murakami hay là ngược lại – ND) – nhưng trong tất cả chuyện ấy hình như có một giây phút trùng khớp hoàn hảo, hoặc có thể coi là một kiểu sự kiện lạ lùng vẫn thấy trong tiểu thuyết của Haruki.

Về việc Jay phát hiện Haruki, cơn choáng ấy vẫn luôn luôn là cái mà tôi tìm kiếm, chính xác như thế, và đây có lẽ cũng là cái duy nhất mà một người làm xuất bản luôn tìm kiếm khi bì bõm lội qua hàng đống bản thảo gửi đến tay mình. Đó là cơn choáng của việc bất chợt nhận ra rằng đây rồi, thật tuyệt vời, chính là cái mà ta phải xem xét kĩ đây. Và với một nhà văn cỡ Haruki thì tất nhiên là cơn choáng ấy phải rất lớn. Giữa một thế giới đen-trắng, lậy trời đây là cái gì đó có mầu (hoặc ngược lại thế, nhưng trong trường hợp nào thì đó cũng là một cái gì hoàn toàn mới mẻ, khác lạ, và tất nhiên là vì vậy mà hoàn toàn bất ngờ).

Jay có tò mò về việc tuyển chọn cho tập Con voi biến mất, việc này rất đơn giản: tôi đọc kĩ tất cả những cái đã có và nhặt ra những truyện hay nhất – tất nhiên là theo thị hiếu riêng của tôi, vì tôi cũng chẳng biết thị hiếu nào của ai khác. Tôi không nghĩ mình đã để ý gì đến chuyện ai dịch truyện này ai dịch truyện nọ, mà cũng chẳng để ý nhiều đến việc mình đã lựa chọn như thế nào. Nhưng tôi vẫn nhớ rất rõ cái ấn tượng là mình đang được mục kích những phương diện hoàn toàn mới mẻ trong văn hư cấu của Haruki từ những câu chuyện ấy, dựa trên những gì mà tôi đã từng đọc của ông. Ví dụ, “Vựa lúa bốc cháy” lúc bấy giờ gây một ấn tượng mạnh mẽ chẳng khác gì phong cách của Carver, mà lại đầy ngạc nhiên và rất dễ chịu. Tôi cũng nghĩ rằng chúng tôi đã tuyển được một tập truyện gây choáng váng cho bạn đọc, và thực tế là nó vừa bán chạy vừa được đánh giá tốt hơn hầu hết các tuyển tập truyện ngắn khác, thậm chí của cả các nhà văn Mỹ đã tương đối có tiếng tăm.

Philip có nói đến việc biên tập trong khi dịch, về chuyện này, tôi nghĩ người dịch giỏi nào cũng phải làm cả hai việc đó – bắt đầu bằng việc phải lựa chọn chữ này chứ không phải chữ kia, rồi đến cấu trúc hoặc ẩn ý của đoạn văn. Vì vậy, lòng tin mà người làm xuất bản đặt vào dịch giả – nhất là khi họ không biết ngôn ngữ gốc của nguyên bản – không phải chỉ là cực kì quan trọng, mà thực sự là cốt yếu. Chẳng hạn như việc tuyển chọn tập Con voi biến mất, tôi sẽ không thể làm được việc ấy nếu cứ phải đoán già đoán non không biết truyện này có hay như bản dịch mình đang đọc hay không. Tôi buộc phải giả định là mình đang đọc một bản dịch trung thành, hợp lí và có chất lượng. Hơn nữa, tôi cũng giả định rằng người dịch cũng đã phần nào biên tập câu chuyện ấy rồi, nên thực tế là tôi không cần phải riết róng lắm việc ấy nữa – chuyện này hoàn toàn chấp nhận được khi tôi đã có không phải một mà là hai dịch giả xuất sắc cùng làm một tập sách. Tôi cũng tin tưởng Haruki đã lựa chọn đích đáng những người dịch của ông, những người hình như đều được coi là có toàn quyền của tác giả trong công việc của họ, và như vậy hoàn toàn có quyền thẳng thừng từ chối những đề nghị ngu ngốc như kiểu thêm ba chữ “ở Tokyo này” như Phil đã kể, hoặc bất kì một kiểu tự ý muốn Nhật-hóa nào khác theo ý riêng của biên tập. Nếu bản thân tác giả thấy không có lí do gì để nhấn mạnh chất Nhật Bản kiểu như vậy thì việc tự thêm thắt như thế có vẻ chỉ thích hợp với loại sách hướng dẫn du lịch thôi chứ không phải sách văn học.

Về cuốn Rừng Nauy thì ý nghĩ của tôi cũng đơn giản như vậy thôi. Theo chỗ tôi biết thì Haruki đã không đặc biệt muốn cho in lại bản dịch đã có hoặc một bản dịch tiếng Anh mới, cho nên tôi cũng để đó thôi. Nhưng trước đây bốn hoặc năm năm gì đó, tôi có nhắn tin cho đại diện của ông biết rằng mấy nhà xuất bản đã in Rừng Nauy đang rất muốn tái bản cuốn đó, và tôi cũng rất ủng hộ họ, nên họ đã nhận được giấy phép làm chuyện ấy. Ở trường hợp này, tôi cũng tin rằng việc đại diện của Haruki cấp giấy phép tái bản là phản ánh đúng ý định của ông, cũng như tôi đã tin là các dịch giả của ông đã phản ảnh ý định của ông trong khi biên tập sách của ông vậy.

Về chuyện vẽ bìa sách thì trước hết là tôi muốn có cái gì đó thu hút, hấp dẫn và mới lạ theo nghĩa đen, chứ không phải cái gì đó đúng với nghĩa bóng hoặc nghĩa tối giản của câu chuyện. Tôi chỉ cần gây được tò mò và kích động ở người đọc, còn việc phân tích các ý nghĩa thâm sâu của bản thiết kế là việc của người khác. Cho nên tôi cũng tin ở họa sĩ vẽ bìa, nhưng là khi họ đã có phác thảo cho tôi xem. Sau đó sẽ là quyết định của bộ phận kinh doanh.

A..., Jay, chuyện cắt ngắn cuốn Chim Dây Cót! Ở trên tôi đã có lưu ý rằng mỗi nước có một truyền thống biên tập sách khác nhau, cũng như trong mọi chuyện khác vậy. Mặc dù cũng có những nghi ngại về mức độ chu đáo của bản tiếng Nhật, nhưng những gì Philip nói thì tôi chỉ có thể hãy cứ tạm tin như vậy thôi. Ta có thể nói rằng ở một số nước, mà đứng đầu là nước Ý, người ta hoàn toàn không biên tập sách trước khi xuất bản, thậm chí là còn không đọc bản thảo nữa kia. Và rõ ràng điều này cũng đúng với một số nhà xuất bản Mỹ. Mà cách làm xuất bản ở mỗi nước cũng khác nhau. Chẳng hạn ở Đan Mạch, nhiều bạn bè tôi ở đó bảo tôi chớ nên xem một cuốn tiểu thuyết nào đó là một tác phẩm, mà hãy chỉ coi nó là một phần của một tác phẩm còn đang viết dở và được xuất bản mỗi lúc một tí, vì có thế tác giả mới hội đủ tiêu chuẩn để nhận bổng bút của chính phủ. Tôi đáp lại rằng tôi không quen với truyền thống ấy tí nào và thấy không có lí do gì để thay đổi lối tôi vẫn đánh giá tác giả dựa vào từng cuốn sách một của họ. Cho nên việc xuất bản cuốn Chim Dây Cót thành từng tập nối nhau có vẻ là một cách làm trung dung. Phản ứng của tôi là không thể cho xuất bản cuốn ấy với độ dài như trong nguyên tác. Làm vậy chỉ có hại cho sự nghiệp của Haruki ở Mỹ mà thôi. Cho nên tôi hoàn toàn tin tưởng vào Jay, và sau khi đã đọc bản dịch của Jay tôi đã quyết định ngay là phải theo như thế, và tôi đã đúng. Việc Haruki hợp tác với chúng ta trong chuyện này đã xua tan mọi lo ngại về vai trò can thiệp võ đoán, sàm sỡ hoặc vị thương mại của chúng ta. Và tôi xin nói với Jay rằng việc làm ấy của bạn đã đỡ cho tôi biết bao ngày giờ nhọc nhằn và tôi sẽ mãi mãi mang ơn bạn. Mà thực ra tôi cũng không thể làm cái việc ấy được, vì không biết tiếng Nhật, vì không được tiếp xúc nhiều với Haruki, vân vân và vân vân. Còn thì như vậy đấy, bọn biên tập chúng tôi cũng chẳng bao giờ được ghi nhận xứng đáng trên trang sách vì tất cả những việc mình đã làm, và điều ấy cũng đúng với công việc biên tập của dịch giả vậy.

Về cuốn Rừng Nauy, thực sự tôi đã phải đợi cho đến khi hiểu rõ ý định của Haruki về cuốn này hoặc về thời điểm xuất bản nó. Tôi chỉ có thể quyết định dựa trên những gì tôi đã có, thời điểm tôi có được chúng, rồi thêm vào những suy tính của mình về mục tiêu xây dựng sự nghiệp hoặc điều tiết nhịp điệu của sự nghiệp ấy cho tác giả. Chẳng hạn như chớ nên xuất bản hai cuốn sách liền rồi biệt tăm trong nhiều năm; mà nên duy trì tối đa sự hiện diện của tác giả trong các hiệu sách bằng cách tính toán thời gian ra sách cho hợp lí và tận dụng hình thức giá rẻ bìa mềm như một phần của quá trình ấy. Với cuốn Rừng Nauy, tôi đã phải cân nhắc một điều như sau: khi có một bản dịch khác vừa được in, tái bản nó dưới hình thức bìa cứng có lẽ không hợp lí lắm, nhất là khi hai cuốn Phía nam biên giới và Cục cưng Sputnik vừa nối đuôi nhau ra đời. Vì vậy, tôi đã quyết định cho in lại dưới dạng bìa mềm. Và quyết định đó đã được chứng tỏ là đúng đắn trên thị trường. Tương tự như thế, thành công của sách hư cấu thường chẳng giúp gì cho thành công của sách phi-hư-cấu, nên không cần phải dùng một nhà xuất bản cho cả hai loại. Và tôi đã chọn nhà Vintage để tái bản Rừng Nauy bìa mềm, cốt để nó đến được tay bạn đọc một cách rộng rãi nhất. (Tôi vừa dùng chính bản này để dịch Rừng Nauy cho nhà Nhã Nam – ND) Người làm xuất bản nào cũng phải tụng bài kinh này.

Về cái bìa của cuốn Chim Dây Cót, xin xem ý kiến ở trên, và tôi cũng xin nói thêm rằng cái bìa đó là một nỗ lực tối đa của chúng tôi và thực sự là một việc làm điên rồ đầy hứng khởi và đắt tiền, và rằng tôi vẫn tin là hình ảnh con chim máy chạy dây cót ấy là thích hợp.

Tôi xin dừng ở đây với một lời đáp cho câu hỏi tại sao Haruki lại trở thành một nhà văn Nhật thành công đột biến ở phương Tây: bởi vì ông là văn sĩ hay nhất, hay nhất kể từ sau Mishima, và bởi vì ông vẫn tiếp tục lớn lên, đổi thay và làm người đọc phải ngơ ngẩn tò mò, có lẽ trong quá trình đó ông cũng thấy ngạc nhiên vì chính mình, chẳng khác gì độc giả đang phải ngạc nhiên vì ông vậy.

Vậy thì, trung thành với cái nguyên tắc rất lành mạnh là các biên tập viên, giống như bầy trẻ thơ, tốt nhất là đừng được ai biết tới nếu có khi nào bị bắt buộc phải xuất đầu lộ diện, tôi xin được ngậm miệng ở đây, mặc dù biết rằng như vậy mình có thể sẽ bỏ lỡ cơ hội được truyền đạt hoặc thắc mắc mà tôi vẫn rất mừng nếu được tùy hứng tham gia theo cách riêng của mình. Tôi xin cảm ơn lòng kiên nhẫn của hai bạn và cuộc trò chuyện tuyệt vời này.

Xin chúc các bạn một năm mới đầy hạnh phúc.
grass
Tớ đọc bản tiếng Pháp cũng thấy văn phòng mềm mại melancholic, không có thanh niên sôi nổi gì cả, buồn buồn ngọt ngào thôi leuleu.gif

Ngoài anh Haruki này có anh Ryu Murakami đọc cũng weird ra phết leuleu.gif về mặt nổi loạn này nọ thì chắc chắn là hơn anh Haruki. Anh Ryu hay viết về những thứ cực đoan và biến thái leuleu.gif hình như còn làm phim nữa nhưng mình chưa xem.
Mr. Smith
Hình như tớ đọc nhầm, theo đó đoạn này
"“Trong số hàng chục ngàn người dịch văn học trên khắp thế giới, chắc chỉ một số rất ít có cơ hội quan hệ và làm việc chặt chẽ với tác giả. Haruki Murakami, nhà văn lớn hiện nay của Nhật Bản, có ba người chuyên dịch sách của mình ở Mỹ, đều là các giáo sư dạy văn học Nhật ở các đại học lớn và đều đã sinh sống và làm việc ở Nhật lâu năm. Thế mà đối với từng tiểu thuyết, ông còn chọn ra ai là người dịch chính thức cho loại độc giả nào. Ví dụ, cuốn Rừng Nauy có hai bản dịch, nhưng một bản thì được Murakami cho phép ấn hành ở nước ngoài, còn bản kia thì cho in trong nước dưới dạng song ngữ để phục vụ sinh viên học tiếng Anh. Các tiểu thuyết của ông khi dịch sang tiếng Anh đều được biên tập lại rất nhiều, và mấy người dịch đóng vai trò chính trong quá trình biên tập này. Cuốn Biên niên Chim Dây Cót chẳng hạn, một tiểu thuyết đồ sộ viết thành ba tập, đã được người dịch – ông Jay Rubin, cắt tổng cộng khoảng 25 ngàn chữ. "
tớ tưởng là đề dẫn của Trịnh Lữ, nhưng đúng ra là của Phạm Vũ Thịnh phải không, nếu vậy thì đúng là tớ nói oan cho bác Trịnh Lữ. Sorry bác ấy.
Đoạn trên không sai, nhưng dễ gây hiểu lầm là người dịch có thể được phép biên tập, chỉnh sửa và cắt xén nguyên tác, trong khi thực ra việc biên tập, cắt xén ấy là do yêu cầu đặc biệt của nhà xuất bản và với sự chuẩn y của tác giả, nghĩa là chỉ là một trường hợp đặc biệt mà thôi.
Thị Anh
Câu này tớ vừa phỏng vấn bác nhà văn này. Hay đáo để.
http://i16.photobucket.com/albums/b47/a2512/6-2.jpg


Ông nói sắc đẹp của đàn bà khi phát tiết nó dữ dội, mê hoặc và thiêu đốt. Hẳn là trong đời ông, từng có nhiều người đàn bà đi qua?

Xin lỗi, ý tôi muốn nói đến sắc đẹp của người phụ nữ một khi đã trở thành đàn bà, nó mới phát tiết hết, mới thật sự dữ dội, mê hoặc và thiêu đốt. Hơi khác quan niệm “gái một con trong mòn con mắt”. Không cần “một con”, chỉ cần thành đàn bà, hình như chỉ tới lúc đó cơ thể phát triển hoàn chỉnh, mới trở thành cơ thể nữ thần Venus, tóc mới thật sự óng mượt, đôi môi mới thật sự đằm thắm, ánh mắt mới long lanh, khát khao, khêu gợi hết mức. Và hình như lúc đó mới tỏa ra dữ dội cái mùi đàn bà. Bây giờ thì rõ rồi. Người ta giải thích một cách khoa học bằng sự viên mãn của các hocmon, không chỉ còn là cảm giác riêng của tôi nữa. Và đáng tiếc chỉ là cảm giác chứ không phải là kinh nghiệm. Những sắc đẹp phát tiết ấy chỉ đỏng đảnh bên tôi chứ không qua đời tôi.
Phó Thường Nhân
Thường thì tác giả có thể chỉ cho người ta nên dịch như thế nào, và cấp "chứng chỉ" công nhận bản dịch trung thành với nguyên tác.
Ví dụ dịch Tanuki, trông một số truyện ông ấy yêu cầu dịch ra tiếng Pháp từ bản tiếng Anh. Có nghĩa là ông ấy đã ngấm ngầm công nhận bản tiếng Anh là dịch chuẩn cho hệ tiếng phương Tây. Vì rõ ràng dịch từ Anh ra Pháp dễ hơn dịch thẳng từ Nhật qua Pháp.

Một số truyện của Kundera, ví dụ, "Insutenable legerté de l'etre" bằng tiếng Pháp cũng được tác giả cấp "chứng chỉ nguyên bản" tương đương với tiếng Tiệp.

Chẳng hiểu trong việc công nhận tác phẩm dịch thuật "trung thành" có hàm ý marketing và kiểm soát bản quyền đằng sau không ?
TươngGiang
Đang đọc Roi thần trong tuyển tập của Phùng Ký Tài. Tác giả này mình thích từ hồi đọc xong Gót sen ba tấc. Truyện rất cuốn hút và giàu ý nghĩa.
Hôm nọ đọc "Hãy bước đi như con tim mách bảo" của tác giả người Ý (quên xừ tên rồi), Khoai tưởng là sến, nhưng chả phải. Cũng khá hay, viết dưới dạng những bức thư của người bà gửi cho cháu gái, bàn luận về mọi vấn đề trong xã hội, từ hai thế hệ với những khoảng cách khó hàn gắn - có tình yêu thương nhưng thiếu sự thông cảm với nhau.

Giờ phải chạy đi mua ít sách cho tuần này, mai ngày kia lại làm việc rồi. Việc ơi là việc, bao giờ thành tỷ phú đây? iswear.gif
TươngGiang
O Zahir của Paulo Coelho cho 2 ngày cuối tuần. Cảm giác đọc được cái mình mong chờ. Nhìn thấy nó cứ sừng sững từ cách đây 2 năm trên các giá sách khắp các siêu thị, sân bay từ châu Á sang châu Phi, rốt cuộc thì nó cũng có một bản tiếng Việt ở Việt Nam.
Alpha books xuất bản. Rất khó hiểu khi Alpha books cứ có được copyright xuất bản các tác phẩm khá hay của nước ngoài ở VN khi mà đội ngũ dịch thuật quá kém.
O Zahir Lê Xuân Quỳnh dịch, vừa đọc, vừa tức anh ách. Kiến thức văn hóa kém, chú thích kém hiểu biết kèm theo cách dịch khá buồn cười và ngô nghê, nhất là trong sử dụng các đại từ nhân xưng.

Anw, cũng đã đọc xong O Zahir như mong đợi. Một cuốn sách rất nên đọc!
grass
QUOTE(TươngGiang @ Jul 10 2006, 04:11 AM)
O Zahir của Paulo Coelho cho 2 ngày cuối tuần. Cảm giác đọc được cái mình mong chờ. Nhìn thấy nó cứ sừng sững từ cách đây 2 năm trên các giá sách khắp các siêu thị, sân bay từ châu Á sang châu Phi, rốt cuộc thì nó cũng có một bản tiếng Việt ở Việt Nam.
Alpha books xuất bản. Rất khó hiểu khi Alpha books cứ có được copyright xuất bản các tác phẩm khá hay của nước ngoài ở VN khi mà đội ngũ dịch thuật quá kém.
O Zahir Lê Xuân Quỳnh dịch, vừa đọc, vừa tức anh ách. Kiến thức văn hóa kém, chú thích kém hiểu biết kèm theo cách dịch khá buồn cười và ngô nghê, nhất là trong sử dụng các đại từ nhân xưng.

Anw, cũng đã đọc xong O Zahir như mong đợi. Một cuốn sách rất nên đọc!
*



Hic, đọc cái này bản tiếng Anh đến gần cuối, còn đâu 50 trang thì give up. Chắc mình đã quá già và đọc đủ Paolo Coelho rồi nên thấy anh này truyện nào cũng như truyện nào. Truyện cuối cùng của anh này mà đọc thấy thích là 11 minutes. Mặc dù cũng fairy story, hay nói như anh Trịnh Lữ trong bài phỏng vấn siêu đao to búa lớn với Phong Điệp là "bao hàm những yếu tố lí tưởng hoá tình cảm, coi trọng cảm xúc hơn lí tính" pirate.gif . Nhưng chắc lúc đấy mình còn trẻ leuleu.gif với vả truyện đấy sweetie sexy leuleu.gif
TươngGiang
QUOTE(grass @ Jul 10 2006, 11:12 AM)
Hic, đọc cái này bản tiếng Anh đến gần cuối, còn đâu 50 trang thì give up. Chắc mình đã quá già và đọc đủ Paolo Coelho rồi nên thấy anh này truyện nào cũng như truyện nào. Truyện cuối cùng của anh này mà đọc thấy thích là 11 minutes. Mặc dù cũng fairy story, hay nói như anh Trịnh Lữ trong bài phỏng vấn siêu đao to búa lớn với Phong Điệp là "bao hàm những yếu tố lí tưởng hoá tình cảm, coi trọng cảm xúc hơn lí tínhpirate.gif . Nhưng chắc lúc đấy mình còn trẻ  leuleu.gif với vả truyện đấy sweetie sexy  leuleu.gif
*



Em cũng thích 11 minutes và sau khi đọc nó xong thì chia tay luôn với 1 boy (cuốn sách của boy đó giờ thuộc sở hữu của Thị Anh leuleu.gif ).

O Zahir thích vì nó được tác giả đưa vào nhiều yếu tố của đời thực hơn (dù cũng đáng chê trách là giờ đây trào lưu tự sự và (có vẻ) đưa vào ít nhiều yếu tố con người thực của mình vào truyện dễ gây ra thiện cảm nơi người đọc hơn - thứ mà các tác giả lớn không nên dùng - em hơi mâu thuẫn chỗ này). Thích vì cái cách mà Coelho nói về một gia đình và thứ tình yêu cũng như những thứ khác mà con người ta luôn luôn chấp nhận đi theo một cách mù quáng (cái vụ những sợi dây do nhóm lang thang chăng lên trên đường phố, ví dụ về khoảng cách giữa hai đường ray xe lửa...). Thích vì một lần nữa Coelho lặp lại sự tin tưởng về các dấu hiệu và đặc biệt thích thú vì trong truyện bác có dẫn một câu mà em cực thích và luôn tin tưởng "Người nào, vật nào, chỗ nấy"... Túm lại là, hơn những truyện trước mà em đã từng đọc của Coelho, truyện này, thấy có nhiều phần rất giống với những gì mình đang suy nghĩ.
Mr. Smith
Tớ không thích Coelho lắm. Thực ra thì cũng tương đối thích Nhà giả kim hồi mới đọc nhưng cảm thấy nó không xứng với những lời tán tụng người ta dành cho nó, và với quá nhiều cliché, và có phần mơn trớn người đọc, thay vì tác giả nói ra những điều mình thực sự nghĩ/cảm. Cuốn thứ hai của Coelho có đọc là Quỷ xứ và cô Prim (?), đọc hồi ở Paris, cũng chẳng có ấn tượng gì cả, giờ thì không nhớ nội dung thế nào nữa. Nghe nói cuốn 11 phút nhiều sex làm mình cũng tò mò xem Coelho viết về sex như thế nào nhưng cũng chưa có dịp đọc.
Tễu
Giống với Grass, tôi cũng không thể nào hoàn thành hết được cuốn o Zahir này khi chỉ còn khoảng 60 trang cuối. Có cảm tưởng rằng nếu muốn giữ ấn tượng tốt về Coelho thì ta chỉ nên đọc 1 cuốn của ông ta là đủ, đọc đến cuốn thứ 2 của ông ta đã là quá nhiều. Nhiều ý niệm và ẩn dụ của Coelho được sử dụng lặp đi lặp lại không cần thiết trong hầu hết các cuốn sách của ông ta. Cuốn 11 phút có vẻ gì đó khác biệt hơn một chút nhưng vẫn mang cái kiểu trịnh thượng của tác giả muốn dạy bảo người đọc phải sống như thế nào, điều mà Coelho rất thích làm và đây cũng là một trong những lý do khiến nhiều người (trong đó có tôi) không thích sách của ông ta.

Hơn nữa, ở cuốn o Zahir này, Coelho đã cố gắng đưa hình ảnh của bản thân mình vào tác phẩm, điều này làm cho o Zahir càng giảm đi giá trị của nó. Nói tóm lại, Coelho còn lâu mới có thể được coi là một tác giả lớn mà chỉ là một tác giả tầm tầm, ít ra là đối với tôi.
TươngGiang
QUOTE(Tễu @ Jul 10 2006, 12:13 PM)
cái kiểu trịnh thượng của tác giả muốn dạy bảo người đọc phải sống như thế nào, điều mà Coelho rất thích làm và đây cũng là một trong những lý do khiến nhiều người (trong đó có tôi) không thích sách của ông ta.

*



Cảm giác của em thì lại khác. Khi đọc Coelho, nhất là trong cuốn này, em nhớ tới lần đi xem bói Kinh dịch cách đây gần 2 năm. Trong bói Kinh dịch, người ta (thầy bói) không bao giờ bảo người tới xem bói là: Anh phải làm thế này, làm thế kia,... để loại trừ điều xấu này hay mong có được điều tốt kia... Tất cả những gì thầy bói có thể nói với anh là: Anh hãy tự chọn cho mình cách mà anh nghĩ là tốt nhất. Trong trường hợp này, như trên quẻ này thể hiện, anh sẽ có được nó hay không có được nó.

Nghĩa là, mọi người tự chọn lấy con đường của mình.

Trong O Zahir cũng vậy, Coelho không lớn tiếng hay trịch thượng dạy bảo gì người đọc. Ông chỉ nêu ra vấn đề và cách ông xử trí với vấn đề đó. Cái còn lại là sự cảm nhận của người đọc. Và dĩ nhiên, chọn lựa cũng thuộc về họ.

Điều đáng tiếc chỉ là, như em đã nói, với tư cách là một tác giả lớn, Coelho lẽ ra không cần tới thủ pháp tự sự - nghĩa là đưa những phần có thật của cuộc đời mình vào tác phẩm - nhằm lôi kéo sự tò mò hay tận dụng sự thông cảm của người đọc. Thủ pháp này thường khá thành công với các tác giả trẻ - vì đó dường như là cách dễ dàng nhất để họ có được cảm tình của người đọc ngay từ đầu.
Mr. Smith
Em Tương Giang gọi Coelho là một tác giả lớn không biết có phải hơi đề cao ông ta quá không. Tớ nghĩ Coelho chỉ có thể gọi là một tác giả bán chạy (best-selling author) chứ không phải là một tác giả văn học lớn. Ví dụ các ông như Stephen King hay Tom Clancy... đều là các best selling author nhưng gọi họ là các nhà văn lớn thì có phần không thoả đáng lắm.

Sách của Coelho có thể coi là self-help spiritual writing, viết dưới hình thức tiểu thuyết và truyện vừa. Về mặt nào đó có thể coi là tương tự như một số cuốn tiểu thuyết của Thích Nhất Hạnh chẳng hạn. Mặc dù cũng có thể so sánh đôi chút với Hermann Hesse vì một số cuốn của Hesse cũng có chủ đề tương tự (ví dụ như Câu chuyện dòng sông- Siddartha) nhưng Coelho so với Hesse thì khoảng cách còn xa xa lắm. Coelho còn bị chế giễu là vay mượn ý tưởng nhiều của người khác, ví dụ như cuốn Nhà giả kim cũng được coi là vay mượn từ một truyện ngắn của Borge, nhà văn có lẽ được đánh giá cao nhất nhì Mỹ Latin, về mặt sáng tạo còn được coi trên tầm cả Marquez nữa.

Có đoạn trích này trên Wikipedia về Coelho

"Paulo Coelho has achieved the greatest imaginable success a Brazilian writer could ever expect to have. However, his achievements are far from being unanimously appreciated in Brazil itself.

Despite all this public success, he is seen by most literary critics in Brazil as a lesser author, whose work is too simple and similar to self-help books. Criticism of his work arises mostly from his plain, direct style and the constant borrowing of ideas from other authors.

Some even call his novels "commercial" and market-oriented. His election to the Brazilian Academy of Letters is a very controversial subject in Brazil"

Việc lấy chi tiết đời mình để đưa vào tác phẩm fiction cũng không có gì là thủ pháp không hay cả. Ví dụ như Hesse cũng có cuốn Demian rồi cuốn Sói đồng hoang với nhiều chi tiết của đời mình trong đó. Hoặc On the Road của Kerouac, Portrait of an artist của James Joyce hay Giã từ vũ khí của Hemingway đều thuộc thể loại tiểu thuyết autobiographical hay semi- autobiographical. Chưa kể đến các cuốn Tự truyện được đánh giá cao về mặt văn học của Gorky, Nabokov hay Marquez. Cuộc đời nhà văn cũng là chất liệu rất tốt để ông ta tạo ra tác phẩm của mình thôi, cái chính là việc xử lý chất liệu đó như thế nào.
Dù sao thì mình cũng chưa đọc O Zahir nên không dám nhận xét cụ thể về cuốn này.
TươngGiang
QUOTE(Agent Smith @ Jul 10 2006, 05:43 PM)
Em Tương Giang gọi Coelho là một tác giả lớn không biết có phải hơi đề cao ông ta quá không. Tớ nghĩ Coelho chỉ có thể gọi là một tác giả bán chạy (best-selling author) chứ không phải là một tác giả văn học lớn. Ví dụ các ông như Stephen King hay Tom Clancy... đều là các best selling author nhưng gọi họ là các nhà văn lớn thì có phần không thoả đáng lắm.

....
Dù sao thì mình cũng chưa đọc O Zahir nên không dám nhận xét cụ thể về cuốn này.
*



Thực ra thì em cũng chưa hiểu một tiêu chí để người ta gọi một tác giả văn học là tác giả lớn như thế nào, nhưng em nghĩ chắc chắn, một tác giả lớn phải là một tác giả bán chạy sách. Vì chỉ khi sách của ông ta được bán chạy, mới đồng nghĩa với việc tập độc giả của ông ta được nhân rộng. Điều này có nghĩa là, tầm ảnh hưởng của ông ta lớn và có tác động tới xã hội nhiều hơn. Ngoài ra, các cuốn sách đó phải có giá trị về mặt văn học, nghệ thuật,... trên các phương diện như ngôn ngữ học, phương pháp sáng tác, đề cập được những vấn đề lớn của thời đại hay của nhân loại,... Rất nhiều nhiều nữa mà có thể em chưa nghĩ được ra (và việc này dành cho các nhà phê bình văn học hơn là em leuleu.gif )

Nói Coelho là một tác giả yêu thích của em thì không phải. Em thì chỉ có Remarque và Marquez mà thôi. Nhưng Coelho là một tác giả đáng đọc, ít ra là với O Zahir và 11 minutes. Tuy nhiên, ví như Nhà giả kim, Ngọn núi thứ 5,... thì em lại không thích. Cũng như nhiều người thích Hoàng tử bé hay Cánh buồm đỏ thắm nhưng em chưa bao giờ đủ bình tĩnh để đọc được qua 10 trang đầu hai cuốn này.

Nói thêm một chút về văn học Brazil, bác Smith nghĩ, ngoài Coelho mà ở Brazil vốn cũng ko được coi trọng lắm như đoạn quote của bác, thì bác nghĩ em nên đọc ai nữa?

Em hiện mới có Miền đất quả vàng của Amado nhưng chưa đọc.
Phó Thường Nhân
Truyện của Coelho nếu so với Herman Hess có lẽ cũng không khác là bao. Chỉ có điều hai ông ngược nhau mà thôi. Trong đó cái ngược của Herman Hess dễ được phê bình gia chấp nhận hơn, vì ông ta viết Spirituel nhưng là một thứ spirituel exotic, lạ đời, không phải của mình. Ngược lại Coelho lại là spirituel cội nguồn, vì cảm hứng của ông ta có nhiều tính thiên chúa, đặc biệt là Catholic.
tôi đọc Siddhatha của Herman Hess thấy rất chán. Có thể vì mình hiểu cái spirituel mà ông ta nói tới (Phật, Ấn độ giáo) hơn, nên thấy ông ta lại hời hợt. Ngược lại cũng phải công nhận là cái spirituel của Coelho cũng chưa được sâu, và những điều ông ta đặt ra chưa vượt được những chủ điểm bình thương, quan niệm bình thường trong Thiên chúa. Trong khi có những nhà văn xu hướng Thiên chúa khác như người viết cuốn "khung của chật hẹp" chẳng hạn (tự nhiên quên mất tên) viết hay hơn nhiều (cũng có thể vì xu hướng của nó là phê phán, trăn trở).

Cũng chính vì Coelho dừng lại ở mức độ thiên chúa dân dã, nên sách bán chạy, vì nó trở nên dễ hiểu. Nhưng ông ta viết cũng hay chứ. (Tôi chỉ muốn nói tới Giả kim thuật, Ngọn núi số 5, và 11 phút.. thôi). Nhưng đúng là nó thiếu một cái gì đó như băn khuăn, trăn trở...để người ta suy ngẫm và tự thêm vào.
grass
QUOTE(Phó Thường Nhân @ Jul 10 2006, 04:27 PM)
Truyện của Coelho nếu so với Herman Hess có lẽ cũng không khác là bao. Chỉ có điều hai ông ngược nhau mà thôi. Trong đó cái ngược của Herman Hess dễ được phê bình gia chấp nhận hơn, vì ông ta viết Spirituel nhưng là một thứ spirituel exotic, lạ đời, không phải của mình. Ngược lại Coelho lại là spirituel cội nguồn, vì cảm hứng của ông ta có nhiều tính thiên chúa, đặc biệt là Catholic.
tôi đọc Siddhatha của Herman Hess thấy rất chán. Có thể vì mình hiểu cái spirituel mà ông ta nói tới (Phật, Ấn độ giáo) hơn, nên thấy ông ta lại hời hợt. Ngược lại cũng phải công nhận là cái spirituel của Coelho cũng chưa được sâu, và những điều ông ta đặt ra chưa vượt được những chủ điểm bình thương, quan niệm bình thường trong Thiên chúa. Trong khi có những nhà văn xu hướng Thiên chúa khác như người viết cuốn "khung của chật hẹp" chẳng hạn (tự nhiên quên mất tên) viết hay hơn nhiều (cũng có thể vì xu hướng của nó là phê phán, trăn trở).

Cũng chính vì Coelho dừng lại ở mức độ thiên chúa dân dã, nên sách bán chạy, vì nó trở nên dễ hiểu. Nhưng ông ta viết cũng hay chứ. (Tôi chỉ muốn nói tới Giả kim thuật, Ngọn núi số 5, và 11 phút.. thôi). Nhưng đúng là nó thiếu một cái gì đó như băn khuăn, trăn trở...để người ta suy ngẫm và tự thêm vào.
*



Ngoại trừ Sidharta các quyển khác của Hesse hầu hết lấy cảm hứng từ thiên chúa giáo. Như Goldmund & Nazareth (có bản dịch là Nhà khổ hạnh và gã lang thang) hay Demian (có bản dịch là Tuổi trẻ băn khoăn). Sói đồng hoang và Người chơi hạt thuỷ tinh thì chưa đọc không rõ, 2 quyển kia đều đi xa hơn nhiều so với Coelho về thân phận và tâm hồn người. Rằng con người không dễ đến thế để biết mình thực sự muốn đi đến đâu, nên đi theo con đường nào, và nếu có biết cũng không dễ đến thế để đạt tới. Các kịch bản của Coelho có phần dễ dãi, đơn giản và Hollywood quá, người ta có thể thấy ở đó các giấc mơ của mình chứ khó thấy được chính mình.

Khung cửa hẹp là của Andre Gide.
Pages: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25
Quán nước đầu làng Ven > Sáng Tác - Thảo Luận - Phổ biến kiến thức > Văn Học & Ngôn Ngữ
Bạn đang xem phiên bản gọn nhẹ của diễn đ n dưới dạng text, để xem các b i viết với đầy đủ mầu sắc v hình ảnh hãy nhấn v o đây !
Invision Power Board © 2001-2024 Invision Power Services, Inc.