Langven.com Forum

Giúp đỡ - Lục lọi - Dân l ng - Lịch
Full Version: Quy Chế đặc Biệt Cho Tp Hồ Chí Minh
Quán nước đầu làng Ven > Gặp Gỡ - Trao Đổi - Làm Quen > Thời Sự
Phó Thường Nhân
Cơ chế đặc biệt cho thành phố Hồ chí Minh. Cái vấn đề này cũng không có gì là mới, vì nó đã tồn tại từ cách đây hai ba chục năm. Có điều vì có ông bí thư mới, nên nó lại nổi lên như một vấn đề thời sự. Vậy bản chất của vấn đề ở đâu. Nó chính là vấn đề cát cứ địa phương. Đây là vấn đề mà nhiều nước trên thế giới gặp phải, đặc biệt là ở những nước đang phát triển, khi cái đế kinh tế không vững, đồng thời quá trình hội nhập kinh tế thế giới ngăn cản sự hình thành nhà nước.
Trong chủ đề “định hướng XHCN” tôi cũng đã nói tới vấn đề này, khi Sky hỏi về dân tộc, khái niệm dân tộc. Tôi cũng đã trả lời là nó có 2 khái niệm khái niệm dân tộc hiểu theo khía cạnh thị trường, và khái niệm dân tộc hiểu theo ý nghĩa văn hoá, lịch sử. Từ dân tộc ở VN được dịch cho hai từ khác nhau trong một tiếng phương Tây (Anh, Pháp, Đức): Nation và Folk (Pháp: Nation và people). Cái dân tộc theo nghĩa Nation chính là dân tộc được định nghĩa bằng thống nhất thị trường. Theo đó tư bản dân tộc thống nhất thị trường, từ đó hình thành dân tộc. Nhưng điều gì xẩy ra nếu thị trường dân tộc không quan trọng bằng thị trường nước ngoài. Trong trường hợp ấy thì nó dẫn tới cát cứ, vì lợi ích kinh tế của ông không trùng nhau.
Câu chuyện này cũng xẩy ra cho một nước phát triển, ví dụ như Ý. Từ khi Ý tham gia ngày càng sâu vào EU, EU là một thị trường thống nhất, thì vùng miền Bắc Ý đã dần dần coi vùng miền Nam Ý là gánh nặng, đòi ly khai. Câu chuyện cũng xẩy ra tương tự với Tây Ban Nha, khi vùng Ca ta lăng (Catalonia) đòi “độc lập”.
Câu chuyện của TP Hồ chí Minh nó cũng như thế. Là đầu tầu kinh tế cả nước, tất nhiên phần đóng góp của nó với ngân sách lớn hơn phần nó được “lại quả”. Và điều đó cũng bình thường, vì TP không phải là một nước, đồng thời nó cũng hút tài năng,nhân lực của các vùng khác ở VN tụ hội về. Với yêu sách đòi một dạng tự trị, thực ra người ta muốn biến quan hệ TP HCM với phần còn lại của VN như một thứ quan hệ thuộc địa.
TP HCM lấy cớ rằng có nhiều điều khiến nó đặc biệt hơn các tỉnh thành khác, và nó không thể chịu chung một quy chế, vì vậy nó muốn có quy chế riêng, do quy chế địa phương xin lên Trung ương quá lằng nhằng. Vậy tại sao lại không cải cách là thành phố trực thuộc trực tiếp Trung ương luôn, không còn chính quyền địa phương nữa mà lại đòi “địa phương độc lập”. Cái quy chế trực thuộc trực tiếp này chính là quy chế của Paris so với nước Pháp, và hình như Tokyo cũng thế (cái này thì tôi không chắc). Ở Paris, không những Paris có quy chế trực tiếp phụ thuộc trung ương, mà thành phố còn được chia nhỏ ra nhiều quận. Mỗi quận có một thị trưởng riêng (Paris có 20 thị trưởng). Họ làm như thế là không để cho quyền lực tập trung vào tay một thị trưởng, vì điều đó sẽ dẫn tới cát cứ. Bây giờ nhìn lại cái cải cách người ta muốn ở TP HCM: chính quyền địa phương độc lập hơn với Trung ương. Cả thành phố một thị trưởng. Ngược lại những gì người Pháp (là một ví dụ) làm với Paris. Người Pháp làm thếvì họ sợ cát cứ. Vậy nếu ông đòi cải cách ngược lại thế, tức là một dạng cát cứ trá hình chứ còn gì.
Ở đâu đó tôi đã có nói tới ông Đinh La Thăng, khi nhận xét là ông ấy đã khôn khéo biết mị dân, khi lôi một trường hợp (trong chính bộ của ông ấy, và ông ấy có quyền bác) lên báo chí để lợi dụng tâm lý ghét TQ. Thực sự mà nói, tôi không hiểu tại sao ở VN lại “mê” ông ấy, trong khi ở nước ngoài, dạng chính trị gia như ông ta, người ta rất sợ và đề phòng, vì cái tính “mỵ dân” (populiste) kia.
Thực ra ông ấy làm được gì khi là bộ trưởng bộ giao thông vận tải. Tôi còn nhớ vụ ông ấy ép Hà nội dịch chuyển giờ giấc đi làm đi học, thành một thứ dở hơi lẩm cẩm, mà cuối cùng Hà nội phải cho chìm xuồng.
Cách đây ít lâu, đọc trên báo , khi thấy Vietnamairline lãi “khủng” ông ấy tuyên bố một câu “xanh rờn”: “lãi khủng thế hạ giá vé máy bay đi”. Cái kiểu tuyên bố vô trách nhiệm thế, với người đứng đầu bộ chủ quản thật kỳ lạ. Ông ấy thừa biết Vietnamairline có lãi vì giá dầu giảm, trước đó thì nó sống dở chết dở vì giá dầu cao mấy năm trời thì ông ấy làm gì?
Trong cái vụ “đãi ngộ đặc biệt cho TP HCM” có thể ông ấy bị bâỹ. Và đấy là sự nguy hiểm của việc sử dụng hình thức mỵ dân. Vì để mị dân, thì cứ phải nống nó lên mãi, cho đến khi ..tuột khỏi sự điều khiển củachính người bầy ra nó.
root
Em nhớ đọc được ở đâu đó có bài báo nói rằng: khi mà nhân dân đã chán ngấy những chính trị gia với những phong cách khuôn mẫu, thì những người có đường lối đi ngược lại với chuẩn mực chung lại rất được ủng hộ. Bác Phó xem tham khảo về hiện tượng Donald Trump dưới đây http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/phan...mp-3358991.html

http://kienthuc.net.vn/nong-sau/vi-sao-my-...ump-648948.html
Phó Thường Nhân
Root có lý khi nói tới Donald Trump, vì hiện tượng Đinh La Thăng nó cũng đi theo cùng cái cơ chế ấy.Có hiện tượng Đinh la Thăng, hay hiện tượng Donald Trump là bởi vì có khủng hoảng. Nó là dấu hiệu của khủng hoảng chứ không phải dấu hiệu cuả giải pháp. Tất nhiên Đinh la Thăng là cá nhỏ, cònDonald Trump là cá lớn. Hiện tượng Đinh la Thăng cũng là hiện tượng ..Elsine, và hệ quả của nó với nước Nga lớn thế nào, nguy hiểm thế nào ai cũng thấy rõ. Nhưng nó cũng đồng với hiện tượng ..Putin. Và trong trường hợp này, thì nó lại là giải pháp. Vậy trong trường hợp nào nó là giải pháp, và trong trường hợp nào nó là hiện tượng khủng hoảng. Khi tôi nói tới Elsine, hay Putin, cũng phải hiểu là nói về cơ chế tạo ra hiện tượng, chứ không nói tới cái tầm, sự quan trọng của hiện tượng. Vì Đinh La Thăng không đạt tới tầm của những nhân vật tôi nhắc tới.
Để cho hiện tượng thành giải pháp, thì bản thân nhân vật phải có tầm. Cái tầm ấy là trí thức, là cái nhãn quan thế giới chứ không phải chỉ có tính cách không là đủ (kiểu ù ờ hay hoạt bát, năng động hay tĩnh động), và cái nhãn quan chính trị kia phải lớn hơn cái tham vọng quyền lực ích kỷ cá nhân. Sau đó cái văn hoá xã hội, hệ thống chính trị của nó cũng phải có xu hướng tôn sùng cá nhân thì mới được. Cái điều này trong văn hoá Nga có, nhưng văn hoá VN không có.
Tôi không biết rõ ông Đinh La Thăng, chỉ biết ông ta qua hình ảnh ông ấy tạo dựng qua medias VN. Với tôi thì ông ấy chỉ là một loại “cai đầu dài” năng nổ, nhưng không phải là người có tầm. Nhưng gì ông ấy làm được ở bộ giao thông vận tải là do năng nổ mà ra, chứ không phải là do tầm nhìn. Sự năng nổ này lại được ông ấy khôn khéo lợi dụng medias theo hướng có lợi cho ông ấy, như vậy nó là tiểu xảo.
Ví dụ như vụ tổng công ti đường sắt. Như tôi đã phân tích, ông ấy là bộ trưởng, là bộ chủ quản. Đơn xin phép của tổng công ti đường sắt đưa lên, ông ấy là người phán xét chấp nhận hay không. Như vậy tại sao phải đưa ra công luận việc mà là nghĩa vụ của ông ấy phải làm. Chính vì thế tôi mới đặt câu hỏi. Hoặc là ông ấy không chỉ huy được, nên đánh phải nói toáng lên để lấy uy. Trong trường hợp ấy thì ông ta là bộ trưởng tồi (vì không chỉ huy được quân). Còn nếu không phải thế, thì là sự ranh mãnh tiểu xảo lợi dụng tâm lý “ghét TQ” của dư luận để thủ lợi (đánh bóng bản thân).Tức là một dạng cơ hội.
Còn tại sao tôi bảo ông ấy không có tầm. Chính là trong sự việc Hà nội thay đổi giờ giấc bát nháo mà ông ta gây ra. Việc lệch pha giờ để giảm mật độ giao thông không phải là giải pháp mới, mà nó đã có sẵn từ trước. Nhưng không ai trước ông ta dám làm, vì lợi ích của nó không rõ ràng. Và điều này rõ ràng được kiểm chứng, khi giải pháp bị “chìm xuồng”. Nếu ông ta có tầm thì ông ta đã thấy. Mà đã thấy thì không như con thiêu thân lao vào như thế.
Ở Hà nội có thể giải quyết vấn đề giao thông được không? Được chứ, đó là việc phát triển dịch vụ giao thông công cộng đồng thời mở thêm tuyến đường. Nhưng những việc này cần thời gian, cần kế hoạch, cần đầu tư, cần trí thức.. Và như vậy nó không thích hợp với hình thức đánh bóng mạ kền bản thân bằng buzz trên các phương tiện medias ngày hôm trước ngày hôm sau phải có kết quả. Cái kết quả này là xổi, nhiều khi cũng không phải là kết quả thực, chỉ là cảm giác tâm lý thôi. Nói một cách khác cái tempo (nhịp đập) của media, của Buzz nó ngắn hơn, khác hơn cái tempo (nhịp đập) của sự làm việc nghiêm chỉnh. Nhưng cái mang lại hiệu quả thực là làm việc nghiêm chỉnh, chứ không thể là buzz.
Đã là buzz thì sẽ dẫn tới hai chuyện:
1) Đánh trống bỏ dùi. Vì ông chỉ cần hiệu quả media của buzz. Hết buzz là hết.
2) Tự mình đánh bẫy mình. Đây chính là vì thiếu cái tầm. Người giỏi là sử dụng được media, còn nếu không sẽ bị media lôi đi. Tại sao thế. Nếu có tầm, nếu có kiến thức, thì media chỉ là phương tiện hỗ trợ, tung hô những gì mà tầm nhìn cho người ta. Tức là người ta đã có chủ đích rồi, media chỉ là phương tiện hỗ trợ giúp thực hiện kế hoạch đó. Media là công cụ. Ngược lại không có tầm nhìn, không có kế hoạch, không có chủ đích, thì sẽ luôn chỉ đạo “nóng”, tức là bị media lôi đi. Nó lôi đi đường nào không biết. Mà muốn câu được media thì ngày nào cũng phải buzz, càng ngày nó càng nống lên. Dần tuột khỏi tay điều khiển. Người ta vẫn nói “người khôn bẩy lần uốn lưỡi mới nói”. Như vậy nói mà không có suy nghĩ, không có tư duy , chỉ là ứng đối nóng thì làm sao mà lãnh đạo.
Khác với thời cách mạng các nhân vật lãnh tự được đào luyện qua đấu tranh cách mạng, tư chất họ khác. Khi nó đã trở thành hệ thống chính trị, thì tâm nhìn cuả các nhân vật chính trị rất kém (điều này đúng cho cả phương Tây và ta, chứ không chỉ riêng VN). Vì sao ? vì các ông lên được là làm thành công cái gì đó ở cơ sở (đấy là không nói tới chạy chức), kinh nghiệm của các ông là cục bộ, thành ra tâm nhìn hạn chế. Nhưng điều này phải được bù lại bởi bộ sậu, bởi cố vấn, bởi bộ máy nhà nước,bởi cách tổ chức, quỹ nghiên cứu.. Nhưng điều này ở phương Tây có đầy đủ hơn, chất lượng hơn. Còn ở VN nhiều khi các ông phải tự chế tự tác. Ở trong các nước đang phát triển, nhiều nhân vật chính trị tầm quốc gia sinh ra từ quân đội. Vì sao vì quân đội là cơ cấu duy nhất có tầm nhìn quyền lợi quốc gia. Ở VN, vì có Đảng đảm nhận điều đó, nên người ta nhìn không rõ điều đó. Nhưng dù thế, không phải ông nào cũng có tầm nhìn, chứ không thể dùng buzz media để lấy uy tín rồi cứ men vào đấy để chỉ đạo nóng , trong khi đầu rỗng tuếch.
Skywalker
Nhà giàu không thích "bằng vai phải lứa" với nhà nghèo thì đâu chẳng thế. Đã giàu lại muốn giàu hơn cũng là lẽ thường tình. A. Toffler đã viết về chuyện các thành phố lớn không muốn gánh vác trách nhiệm tế bần trong cuốn "The third wave" từ 30 năm trước. Giờ ở VN mới xuất hiện kể cũng là muộn. laugh.gif

Ông Đinh La Thăng chỉ là người thuận theo quy luật (tâm lý, kinh tế, chính trị etc.) chứ cá nhân ông ấy không thể tạo ra sức ép gì với Trung ương và các địa phương khác. Việc giải quyết vấn đề sao cho hợp tình hợp lý thì cũng phải nhìn vào quy luật vận động thôi.

Tâm lý "xã hội chủ nghĩa" vốn tạo cho nhiều người VN cái thói rất xấu là lười biếng (lao động, tự chủ, sáng tạo) đồng thời với ỷ lại, dựa dẫm vào nhà nước. 63 tỉnh thành đa số là nghèo với GDP bình quân bằng 2/3 nhóm topten, thế thì câu hỏi đặt ra là Trung ương đã quản trị cả nước theo cơ cấu nào?

Theo em thì việc phân bố nguồn đầu tư của VN trong nhiều năm nay là cào bằng, Trung ương rót cho mỗi địa phương một ít để mua lòng trung thành, tạo đồng thuận. Thế nhưng, vốn đầu tư từ TW là bước đầu (cần câu) đã chẳng tạo ra được cái ăn và tích lũy lâu dài cho địa phương. Lãng phí, thất thoát ... cực kỳ phổ biến và dân gian đều hiểu là mỗi khoản vốn TW rót xuống thì địa phương đều có nghĩa vụ lại quả, quan trên quan dưới đồng tâm nhất trí chia nhau "của chùa" nhà nước XHCN.

Nhưng của chùa có vô tận không? Chắc chắn là không. vài năm nay báo chí rậm rịch tin cạn vốn ngân sách. Nợ công đã vượt trần (65% GDP), thu ngân sách không đủ chi thường xuyên và ngay quý I/2016 chính phủ đã cắp rổ đi vay 3 tỷ đô để đảo nợ và đầu tư.

Bầu sữa cạn thì TW hỏi địa phương "tiền đâu?". Giai đoạn phải thật sự bươn chải kiếm sống mới bắt đầu.

Và mở đầu của so đo tính toán. sp_ike.gif
Phó Thường Nhân
Cái Sky nói mới chỉ được nửa vế. Tức là vấn đề Trung ương sẻ xuống địa phương (distribution) nhưng nó có một vế khác nữa là địa phương giao nộp lên trung ương (collection). Như vậy mỗi địa phương sẽ tính thua thiệt theo cái công thức value=distribution-collection. Khi làm con tính này, thì có địa phương sẽ lợi, có địa phương sẽ thiệt. Nhưng trong một nước thì nó phải thế. Nếu không thì đã không phải là một quốc gia thống nhất. Vì không bao giờ tìm được một nước nào mà tất cả các vùng đều giống nhau. Để giải quyết cái sự chênh lệch này thì nó có hai giải pháp. Giải pháp một là cân đối ngân sách (đấy là nghĩa vụ của nhà nước, như VN đang làm và phải làm), giải pháp hai là tự nhiên, tức là dân sẽ tự di động về vùng kinh tế phát triển, theo kiểu đất lành chim đậu. Hai cái giải pháp này giúp nhau điều hoà, vì sao ? vì khi có sự di dân tự nhiên, thì vùng nghèo dân sẽ ít đi, gánh nặng ngân sách sẽ giảm, do độ cào bằng cũng giảm. Ví dụ. nếu một tỉnh nghèo có 1 triệu dân, để đảm bảo mỗi người 1 đô cân bằng cả nước, thì đã mất 1 triệu. Ngược lại, do cân bằng tự nhiên, đất lành chim đậu, dẫn sẽ giảm đi, giả dụ còn 0,5 triệu. Thế có nghĩa là 0,5 triệu đã tự đứng được mà còn đóng góp, ngược lại cái phần sản xẻ cũng giảm đi một nửa. Một nửa tự đứng được kia là tìm về vùng kinh tế phát triển. Cái lô gíc tự nhiên đất lành chim đậu này không thể cản trở, và chính sách nên hướng tới nó. Nếu muốn làm ngược cũng không được. Tôi lấy ví dụ Hàn quốc muốn dãn dân ở Seul, nên xây thủ đô mới. Nhưng không chuyển được trung tâm kinh tế. Mặc dù Seul nằm ngay cạnh đường giới tuyến. Brazil xây thủ đô mới ở sâu trong nội địa, nhằm cân bằng phát triển. Nhưng trung tâm kinh tế của nước này vẫn là Sao Paolo, không dịch được.
Ở VN, cái điều nguy hiểm là cách thức phân bổ quản lý hành chính cũng như tư duy hành chính tự nhiên của nó đi ngược lại cái lô gíc tự nhiên “đất lành chim đậu” này và đấy là điều cần cải tổ. Cái này không liên quan gì tới chủ nghĩa xã hội cả, vì hệ thống hành chính ở Vn có tính cát cứ, nó là hình thức phong kiến, không phải là chủ nghĩa xã hội.
Không phải chỉ VN như thế, mà ngay cả TQ cũng bị thế. Người ta đã nhận xét là ở TQ không có một thị trường, mà Bắc kinh là một thị trường, Thượng Hải là một thị trường. Mỗi thành phố , mỗi vùng ở nước này là một thị trường. Ở VN cũng vậy. 63 tỉnh thành là 63 nước VN thu nhỏ, có 63 ông Nguyễn phú Trọng, 63 ông Trương Tấn Sang, 63 ông Nguyễn tấn Dũng, chỉ thiếu mỗi 63 ông chủ tịch quốc hội. Rất may là cái khung hành chính này không trùng với cái khung quân sự (địa giới các quân khu ở VN không trùng với địa giới hành chính tỉnh), chứ nếu không thì quốc hội VN thành Liên hợp quốc, và VN sẽ có loạn 12 sứ quân ( chính xác hơn là 63 sứ quân). Tại sao chuyện này lại xẩy ra ở TQ và VN. Nguyên nhân là do sự chuyển đổi vào hình thái kinh tế thị trường của hai nước giống nhau. Ở VN cũng như TQ, khi chuyển vào kinh tế thị trường thì có hai điều đặt ra là vốn và khả năng quản lý tổ chức. Vì không có vốn nên phải góp bằng đất, và cái hình thái tổ chức nào đã tồn tại có khả dĩ tạo nên doanh nghiệp, đó là tổ chức hành chính. Kết quả hệ thống hành chính đã tạo ra các pháp nhân độc lập trên thị trường. Lấy ví dụ nhìn thấy ngay. Ở VN hiện tại có nhiều báo điện tử, media rất đa dạng. Nhưng chủ nhân tạo ra nó là ai: bộ bưu điện, đoàn thanh niên, uỷ bản nhân dân này kia..v..v..Đây là những tổ chức hành chính. Ở một nước tư bản người ta không thấy điều đó. Ví dụ ở Pháp làm gì có báo bộ ngoại giao, báo bộ du lịch, ..v..v..
Chính vì thị trường là do hành chính tạo ra. Các tổ chức hành chính địa phương lại cấu trúc y chang tổ chức trung ương. Kết quả khi phát triển sẽ dẫn tới cát cứ. Vấn để cát cứ không phải chỉ vì đòi ngân sách, mà đòi quyền tự trị để ăn mảnh. Vấn đề cát cứ này nếu không giải quyết thì sẽ là vấn nạn cho VN, giống như thời kỳ Trịnh-Nguyễn-Mạc thời xưa.
Cách giải quyết nó thế nào. Có bốn cách đi liền với nhau, cách thứ nhất là thống nhất quản lý dân sự, để người dân có thể tự do di chuyển sinh hoạt ở nơi họ muốn (đây là vấn đề hộ khẩu). Làm sao để họ đến đâu cũng có thể làm được mọi thủ tục hành chính đơn giản. Ở đây nó vấp vào vấn đề truyền thống, vì hộ khẩu ngày nay không còn ý nghĩa quyết định như ngày xưa, nhưng nó vẫn là một khâu được dùng để quản lý nhân sự. Cách thứ nhì là đa dạng hoá quyền lực địa phương. Theo nguyên tắc thành phố càng to, tỉnh thành càng lớn, thì quyền lực hành chính địa phương phải giảm, cơ cấu chỉ huy trực tiếp từ Trung ương tăng. Cái điều này nhìn thấy rất dễ. Ví dụ, một người đứng đầu một cái làng có 100 hộ, thì khả năng ông ta kiêm nhiệm nhiều chức năng (hành chính, an ninh, xã hội, kinh tế..) có thể làm được. Nhưng nếu đứng đầu thành phố 5 triệu dân lại khác. Quyền ông phải giảm.
Cách thứ ba là tăng cường khả năng liên vùng. Trong mọi trường hợp, không thể để các loại khung quyền lực trùng nhau. Ở VN, cái khung quân sự và hành chính đã không trùng nhau. Vậy cái khung kinh tế và hành chính có nên trùng không. Còn điều thứ tư là phải cân bằng giữa dân chủ cơ sở và sự chỉ định của nhà nước trung ương. Nghiên cứu nước Pháp thì người ta sẽ thấy cái này. Ở Pháp người đứng đầu thành phố, hay tỉnh là do dân địa phương bầu. Nhưng ông ta không có tất cả quyền như một người đồng sự ở VN. Ngược lại nhà nước Pháp ở trong mỗi tỉnh đều có một cấu trúc, gọi là préfeture, do nhà nước trung ương chỉ định và quyền lực của nó rất to. Bao gồm an ninh, phòng hộ, kiểm soát dân số, phân phát licences cho các cơ chế kinh tế. Và nó có thể vượt quyền chính quyền địa phương, nếu chính quyền địa phương vi phạm chính sách nhà nước. ví dụ, ở thành phố tôi ở, do dân nó buốc doa (bourgeois), nên không muốn xây dựng chung cư kiểu chính sách xã hội. Ở đây cả dân và chính quyền địa phương đều đồng tình với nhau chống nhà nước Trung ương. Kết quả, bây giờ nếu ai muốn bán nhà, bán đất, thì Préfecture có quyền pre-empty, tức là bắt buộc phải bán cho nhà nước để xây nhà xã hội cho người nghèo. Ở VN, ngoài cái khung Đảng, thì nhà nước trung ương không có cái khung ấy. Đây là điều cực dở.
Ngay thời phong kiến, để tập quyền, nhà Nguyễn chẳng hạn cũng phân liệt ra. Bộ máy hành chính làng là do dân bầu. Nhưng Huyện là do nhà nước Trung ương chỉ định.
Hệ thống hành chính VN hiện nay, thực ra không hợp lý với hình thái kinh tế thị trường. Chết nỗi , đề ra cải cách, thì do vụ lợi cá nhân, người ta chỉ muốn đẩy nó theo hướng cát cứ rồi ba hoa chính choè cố gắng nguỵ biện cho nó.
Phó Thường Nhân
Tại sao TP HCM mất ngôi số một trong bảng xếp hạng tỉnh thành. Có hai thông tin rất đáng chú ý. Đó là vai trò đầu tầu của thành phố, được ông Lê Duẩn đề cập tới đầu tiên. Và theo như ông Thăng, thì Thành phố không thu hút được FDI, thua một địa phương khác như Bắc Ninh chẳng hạn. Bắc ninh đứng đầu bảng, nhưng tôi chưa thấy ai nói đi lên Bắc Ninh sinh sống. Ngược lại người đổ về TP HCM hay Hà nội thì có. Nếu tính thu nhập bình quân đầu người, thì TP HCM vẫn là bậc nhất. Vậy những thông tin kia có mâu thuẫn gì. Giải thích nó thế nào.
TP HCM nổi lên nhất như một đầu tầu vào thời điểm chuyển đổi sang kinh tế thị trường, lúc VN đang bị Mỹ phong toả. Nhưng kinh nghiệm của thành phố đã giúp ông Nguyễn Văn Linh đúc kết tạo ra tầm nhìn để đổi mới. Vào thời điểm đó, nếu so với một thành phố tương đương là Hà nội, thì người ta hiểu được ngay lý do vì sao TP HCM lại là đầu tầu. Hà nội là thành phố Trung ương, đồng thời nó là thành phố bị cắt đứt quan hệ với thế giới tư bản từ năm 1954, do chính phủ VN dân chủ cộng hoà không được phe tư bản công nhận. Ngoại trừ Pháp vì là một bên ký hiệp định Giơ ne vơ, chính phủ VN chỉ được các nước XHCN cũ công nhận và có quan hệ ngoại giao kinh tế.Ở miền Bắc cũng đã tập thể hoá lâu. Nhưng điều này đã khiến Hà nội không còn cập nhật với thể thức sinh hoạt kinh tế thế giới. TP HCM không gặp phải những vấn đề như thế, không nhưng thế TP này luôn có quan hệ tương đối mật thiết với các nước ĐNA (đặc biệt là Sing), thông qua cộng đồng Hoa kiều ở chợ lớn. Vào thời điểm “yêu nước nhất”, chính quyền miền Nam thời Ngô đình Diệm cũng chỉ ép Hoa kiều nhập tịch, nhưng không động tới công cụ sản xuất của họ. Chính những điều đó đã làm cho TP trở thành nơi hội tụ đủ điều kiện nhất để “phá rào” , “cởi trói” chuyển trở lại kinh tế thị trường. Chính sách phát triển (đúng hơn là không có chính sách phát triển) kiểu bột phát ấy đã khiến TP bứt lên, trở thành đầu tầu kinh tế VN.
Cùng lúc đó, do bị phong toả cấm vận, TP lại có điều kiện để phát triển công nghiệp (luôn luôn bột phát). Tôi còn nhớ chuyện buồn cười là có mặt hàng làm ở Hà nội, ngay bên Gia lâm, nhưng khi đem bán thì người ta vẫn nói là “made in Sài gòn”, vì TP đã có một tín nhiệm thương mại, một cái mác rất lớn trong kinh tế nội địa. Tôi chắc đến nay, người VN vẫn nhớ xà phòng, kem đánh răng, khung xe đạp, .. của TP HCM.
Nhưng khi VN mở cửa , hội nhập, thì những thế mạnh trên không còn là độc quyền của TP nữa. Cơ chế thị trường không còn là điều xa lạ. Các mặt hàng của TP không còn đủ sức cạnh tranh với hàng TQ (ở khúc tầm tầm), hàng hiệu chất lượng cao (từ các nước TB phát triển).
Sự đi xuống của TP HCM là thể hiện sự đi xuống của công nghiệp, kinh tế nội địa nói chung. Như vậy nếu so sánh đòi hỏi TP HCM học kinh nghiệm của Bắc Ninh để phát triển thu hút FDI gia công, thì tôi nghĩ là đi trật đường. TP phải phát triển những gì mà những kiểu khu kinh tế chế xuất ở Bắc Ninh, Bình Dương, ..không làm được. Tức là phải hướng tới lao động chất lượng cao. Tới thiết kế, dịch vụ kỹ thuật, văn hoá,..
Ở VN, vị thế như TP HCM không nhiều (tính về hội tụ đất lành chim đậu tự nhiên, cái này ai có tí kiến thức về phân vùng kinh tế sẽ thấy). Có lẽ chỉ có Hà nội, Hải Phòng, TP HCM và có thể Đà nẵng. bởi vì muốn phát triển cũng phải có điều kiện về đất đai, nước, cái hinterland kinh tế đăng sau. Ví dụ tôi tính Hải phòng, vì nó là cảng biển đi ra của toàn đồng bằng Bắc bộ, đồng thời cho cả VânNam và Quảng Tây (TQ). Đà nẵng, hinterland của nó chỉ là vùng Quảng Nam Đà nẵng, nếu có đường xá thì có thể câu kéo tới Lào. Nhưng rõ ràng tiềm năng không lớn. TP HCM thì có cả vùng đồng bằng Nam bộ và Nam Tây Nguyên. Tất nhiên phải tính cả con đường hàng hải chiếm tới 60% thương mại thế giới đi qua biển Đông. Khiến các thành phố biển miền Trung có thể trở thành nơi chế xuất và xuất khẩu ngay. Nhưng nó vẫn hạn chế, nếu không có một vùng kinh tế tự nhiên chống lưng, giống như chiến khu ở đằng sau.
TP HCM như vậy chỉ có thể phát triển mạnh nếu tìm cách liên minh chuỗi với Bình Dương, Biên Hoà, rồi Bà rịa vũng tầu. Nếu nâng chất lượng đào tạo kỹ sư lên cấp quốc tế, nếu trở thành tụ điểm của mạng cáp quang toàn cầu, có cơ chế để nuôi Start-up ( bao gồm cơ chế tài chính, và hành chính)..Về văn hoá nó có thể là trung tâm phim ảnh (kiểu Bô li út của Ấn độ), trung tâm mốt (mode), ..v..v..
Phó Thường Nhân
Trong 10 năm vừa qua, ở VN cũng đã đặt nền móng cho sự phát triển kinh tế vùng tương lai, bằng cách tạo ra nhiều thành phố đơn năng, kiểu Dung quất, Vân phong, Cam ranh hay các cơ sở ở Thanh Hoá (Nghi Sơn), hay Hà Tĩnh. Tôi không rõ sự phát triển ấy là dựa theo một bài bản, có kế hoạch hay trôi nổi theo dự án, hay vì lấy lòng các địa phương để tạo lập phe phái. Về Dung Quất là có bài bản, vì đây là ý đồ có từ lâu. Cam ranh thì vì vấn đề quân sự. Còn những nơi khác thì không rõ. Thời gian tới có lẽ không nên mở tiếp các “địa danh mới” mà nên tập trung hoàn thiện các tụ điểm mới này, nối kết chúng với nhau. Nhưng tất cả các điểm mới này không thể có sức hút bằng Hà nội, TP HCM, Hải phòng, Đà nẵng. Đặc biểt TP HCM và HÀ nội là những thành phố đa năng, đất lành chim đậu. Hai thành phố này có thể hoàn toàn phát triển “bột phát tự nhiên”. Vì thế vấn đề chủ yếu là đặt được kỷ cương phát triển, định hướng chúng. Ngược lại những thành phố đơn năng mới mở ở trên, thì phải chờ cú hích kinh tế (dựa vào các công trình kinh tế trọng điểm đã làm, đang làm, sẽ làm). Nhưng vể lâu dài, thì những thành phố này cũng không có đủ điều kiện tự nhiên để phát triển thành đô thị lớn tương đương với TP HCM hay Hà nội, vì nó thiếu các điều kiện tự nhiên để làm điều đó (ví dụ đơn giản là nguồn nước cho đô thị, hay mặt bằng quy hoạch). Để các thành phố nhỏ này phát huy được tác dụng thì cũng phải xâu chuỗi chúng với nhau.
Trở lại với TP HCM. Đặc điểm đặc sắc nhất của thành phố là sản xuất nội địa, đã có một mạng lưới các cơ sở tư nhân vừa và nhỏ năng động, là trung tâm dịch vụ, có một tầng lớp tư sản có thể trở thành tư sản dân tộc, nếu sản xuất nội địa phát triển (ngược lại thì nó thành mại bản). TP HCM cũng là tâm điểm của một vùng kinh tế, ví dụ không thể có Bình Dương nếu không có TP HCM, cũng như không thể có Bắc Ninh nếu không có Hà nội. So với Hà nội, là thành phố thứ hai có tầm như nó, TP HCM lại có lợi thế là nằm gần như trực tiếp trên tuyến đường hàng hải quốc tế. Hiện nay VN đã xây cảng mới ở Bà rịa- Vũng Tầu, vì thế TP HCM phải liên minh với nó. Cái nhìn như vậy phải là liên minh vùng, như tôi đã nói.
Khi liên minh vùng, không nhất thiết phải lập ra ban bệ, bầy vẽ ăn chán ngân sách rồi mới làm lấy lệ mà chỉ cần những cơ chế nhỏ nhẹ có tính chất điều phối , phối hợp nhằm hướng chính sách phát triển liên kết với nhau. Ví dụ, có thể có một cơ chế gọn nhẹ điều phối vấn đề giao thông của cả vùng, từ Bình dương, Đồng nai qua TP HCM tới Bà rịa Vũng Tầu. Cơ chế này có thể là của Trung ương (tức là cắt quyền lực địa phương đi), cũng có thể là văn phòng phối hợp hành động, mà mỗi sở giao thông của các địa phương liên quan phải chấp hành và hoạt động theo kế hoạch chung đưa ra. Tương tự như vậy với an ninh (vì đuổi cướp ở Sài gòn thì nó chạy qua Bình dương). Về vấn đề hành chính cũng có thể chia nhỏ thành phố thành nhiều khu vực hành chính khác nhau, và người đứng đầu TP HCM chỉ là người điều phối (giống như Paris, Luân đôn), chứ không cần một ông Superman nắm hết quyền cái gì cũng “tôi, tôi , tôi”.
Một điều nữa, TP HCM rất có lợi thế. Đó là đào tạo Đại Học. Chẳng có TP nào trên thế giới phát triển mà không có một hệ thống đại học cao đẳng tương xứng và có đẳng cấp thế giới. Ở VN, không hiểu sao người ta cứ thích nhồi nhét ở hệ tiểu học, trung học, trong khi nó chỉ có giá trị nhận thức cơ bản, còn cái quyết định là đại học, trung học chuyên nghiệp. Do thành phố đã có một mạng lưới doanh nghiệp năng động, khả năng gắn bó đào tạo với sản xuất có điều kiện hơn. Người dân thành phố cũng thực dụng hơn. Đây là điều kiện rất tốt để có một hệ thống đại học đào tạo thực tế, mà không phải chỉ “lấy bằng làm quan”.
Skywalker
Từ quan điểm "cơ thể học" đối với nền kinh tế quốc gia mà nói thì các trung tâm lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh ... phải là nơi chuyển hóa và thúc đẩy dòng "máu" tài chính tiền tệ. Bài học trên thế giới chính là New York, London, Singapore, Hongkong ...vv.

Ví dụ đơn giản về năng lực chuyển hóa của các trung tâm kinh tế chính là thị trường vốn và tài sản (gồm cả bất động sản). Thanh khoản của các thị trường này càng mạnh mẽ thì 'sức sống" kinh tế càng dồi dào, sự nuôi dưỡng, hỗ trợ đưa đến các vùng sâu vùng xa càng lớn.

Cũng phải nói thẳng một điều là các trung tâm kinh tế lớn hình thành từ sự cạnh tranh khốc liệt, cho nên việc chia sẻ nguồn lực cho các tỉnh khác từ tiền túi chỉ là "nhón tay làm phúc" nếu không có các tính toán chung lợi ích (chẳng hạn từ Trung ương).

Với TP. Hồ Chí Minh, có một quá trình lịch sử của sự can thiệp chính trị vào kinh tế. Sự can thiệp này có thể kể đến gồm:
- cải tạo công thương nghiệp vào thập niên 70s, 80s
- cho tự do thương mại từ 1986
- thí điểm cho đầu tư nước ngoài 1990
- cho mở sàn giao dịch chứng khoán đầu tiên 1999
- cho tự chủ quy hoạch đô thị với các dự án thuộc thẩm quyền từ 1996
và rất nhiều chủ trương chính sách tháo gỡ đầu tư cũng như hỗ trợ nhiều mặt khác.

Có thể nói là TW ngay từ đầu đổi mới đã muốn TP là một trung tâm "tạo máu" tài chính khiến cho giá trị bất động sản của TP tăng vọt, đơn giá tương đương về vị trí gấp từ 1,5 - 4 lần so với các tỉnh giáp ranh như Bình Dương. Nhà giàu các tỉnh đem tiền về TP mua sắm, hưởng thụ tạo góp phân nên sức mạnh kinh tế của TP, đo bằng GDP.

Câu hỏi mở đầu của chủ đề này, do đó, cần tìm trả lời ở cấu trúc quan hệ giữa kinh tế với chính trị ngay nội tại. Một ý kiến khó nghe nhưng khá hữu lý, đó là TP đang rơi vào đổ bể đầu cơ (xì hơi hay vỡ bong bóng tài sản), khiến cho áp lực trả lãi cũng như sinh lời chung của TP trở nên nặng nề. Đầu cơ tài sản (bất động sản) tuy là một hiện tượng tự nhiên của thị trường, song với VN thì yếu tố mờ ám của dòng tiền (do tham nhũng, lãng phí) đã gây khó khăn cho việc tiên liệu và kiểm soát.
blackberry
VN bi giờ tệ hơn trước đây 6-7 năm. Hàng hóa nhiều nhưng không có tiền mua. Dân thì ăn 1 món có tới 3-4 thứ hóa chất. Các thằng Phó, Langtu vẫn ở tây ăn bơ thừa canh cặn và nói nhăng cuội
Phó Thường Nhân
Cách đây mấy năm (2010) khi tìm hiểu về giá bất động sản, thì tôi thấy giá ở TP HCM thấp hơn ở Hà nội. Và cái đấy là dễ hiểu, vì khả năng đầu tư vào sản xuất tự nhiên ở TP HCM lớn hơn ở Thủ đô. Tiền mà vào bất động sản, thực ra là vì không có cửa đầu tư sinh lời nên mới thế. Nó là đồng tiền quẫn. Mang tiền vào bất động sản, thì thực ra giống như đầu cơ vàng. Bây giờ Sky nói là giá bất động sản ở TP HCM cao thì tôi không rõ.
Việc dùng bất động sản thu hút tiền, tôi thấy cái đó ở Hà nội rõ hơn. Đó chính là cái “Hà nội mở rộng”, lấy cái danh Hà nội để lên giá đất.
Như vậy nếu kinh tế phát triển, thì giá bất động sản phải giảm. Bởi vì tiền sinh lời đầu tư sản xuất lợi hơn. Nhưng muốn có cửa đầu tư sản xuất thì phải có công nghệ, và làm chủ thị trường. Điều mà VN chưa làm được.
Trong thập niên vừa trôi qua, VN mới bắt đầu có những công cụ để điều khiển kinh tế bằng tài chính (hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán). Hiện nay VN cũng đang tìm cách loại bỏ đồng đô ra khỏi hệ thống thanh toán. Nhưng làm được không và làm đến mức nào lại là vấn đề. Vì cho đến nay từ khi mở cửa thì ở VN có 3 hệ thống thanh toán tiền: đô, VND, và “cây vàng” (vàng). Đô và Cây vàng nhà nước không quản lý được. Chính vì thế mà tín dụng đen là một phần quan trọng của kinh tế VN.
Nhưng cho đến nay lòng tin vào VND không lớn, và đấy là điều khó cho quản lý kinh tế. Trong thập niên vừa trôi qua, vào thời điểm đỉnh, lãi xuất VND lên tới 17,18%. Điều đó cũng có nghĩa là bóp nghẹt kinh tế nội địa, trong khi FDI với vốn nước ngoài, lãi xuất rẻ hơn nhiều (trung bình 4%). Lãi xuất VND cao, tạo thêm lòng tin vào VND vì đánh vào lòng tham. Nhưng về lâu dài thì không thể trụ được.
Một điểm yếu nữa là đô la người ta luôn cần, không kể VND phải luôn có tỉ giá thấp hơn Đô và Nhân dân tệ, thì kinh tế VN mới sống được. Trong trường hợp như thế, thì tâm lý muốn giữ vàng và đô thắng thế (ngoại trừ lãi xuất VND gửi ngân hàng hấp dẫn hơn việc tích trữ hai công cụ kia).
Hiện nay thị trường tài chính VN chỉ có khoảng 15 triệu người, tương đương với một nước nhỏ ở châu Âu, vậy mà số ngân hàng nhiều hơn rất nhiều. Kinh doanh không rõ ra sao. Vì thế chắc chắn thời gian tới phải cấu trúc lại, giảm số lượng ngân hàng, tập trung lại.
Nhưng điều nói trên, không liên quan duy nhất tới TP HCM. Ngược lại việc mới định hình các công cụ tài chính nhiều lỗ hổng, bí bách về công nghệ, không có thị trường.. với tôi có thể là nguyên nhân dẫn đến cái bong bóng bất động sản ở TP HCM (và các nơi khác) chứ không phải là tham nhũng .
Skywalker
@bác Phó:

Đúng rồi bác ạ, giá đất tại HN đã và vẫn đang cao hơn Tp. HCM vì HN yếu hơn về cơ cấu đầu tư sản xuất kinh doanh, nhưng thị trường tài sản của 2 TP này đều cùng mục đích chuyển hóa dòng vốn. Tư bản tư nhân không bao giờ có chuyện cố định ở một chỗ mà người này ra, người kia vào trong vô số lĩnh vực đầu tư ... mà dòng chảy chỉ là cách lấy tổng bình quân. Kinh tế thị trường có gốc rễ là tư nhân, là con người chính là từ bản chất, còn Marx tính toán nhóm nọ nhóm kia, đồng vốn này đồng lãi kia luôn chỉ là ước lượng số lớn và không thể theo kịp sự biến chuyển nhanh chóng của thị trường.

Trở lại với chính sách vĩ mô và kinh tế Tp. HCM thì một điều có lẽ nên ngẫm nghĩ đó là số vốn mà các ngân hàng thương mại VN (thực chất là tiền gửi ngắn hạn của người dân) dùng để mua trái phiếu chính phủ. Con số này lên tới 80% lượng trái phiếu chính phủ bán ra trong năm 2015, đồng nghĩa với sự bế tắc lớn của dòng vốn xã hội. các lĩnh vực tư nhân không còn mấy doanh nghiệp sinh lời và nhà đầu tư dồn mọi con mắt vào chính phủ, con nợ uy tín nhất thị trường.

Nhưng, theo báo VnEconomy thì 10 năm nay, chính phủ VN vẫn vật lộn với các khoản chi thường xuyên và trả nợ luôn ở mức tăng dần khiến bội chi, thâm hụt ngân sách đã ở ngưỡng cảnh báo (65%GDP mà Quốc Hội đặt ra). Đầu tư công thua lỗ, không hiệu quả (kinh tế tượng đài) cộng với bộ máy phình to là nguyên nhân, mà ở VN thì 2 vấn đề này chính là chính trị, là cơ cấu nhà nước.

Bởi vậy, có người đánh giá việc Tp. HCM đòi tự chủ lớn hơn thì có một đề mục quan trọng chính là khoán ngân sách, tức là quỹ lương cho bộ máy của thành phố được giao trọn cho cấp lãnh đạo trực tiếp để tạo điều kiện cho sàng lọc nguồn nhân lực, tinh gọn, hiệu quả hơn.

Công chức "sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về" (có nhận định là 30%) sẽ bị ảnh hưởng nếu chính sách này được thông qua.
Phó Thường Nhân
@Sky,
Những điều mà Sky nói ở trên đều đúng nhưng nó là những vấn đề khác nhau và không liên quan với nhau. Tương tự như vậy, khi dùng chủ nghĩa Mác thì không có nghĩa là lại bị “ám ảnh” bởi nó. Chủ nghĩa Mác là học thuyết nối liền chính trị xã hội kinh tế, nó cho người ta cái nhìn tổng quan, như xây nhà thì phải có bản thiết kế, nhưng biết cửa sổ nằm ở chỗ nào, cửa ra vào chỗ nào..v..v..thì muốn lắp cửa sổ cũng phải có kiến thức về lắp cửa sổ chứ không thể giơ cái bản thiết kế hô “biến” là nó thành.
Theo tôi toàn cảnh kinh tế VN nó như thế này. Nền kinh tế thực ra bị chia làm đôi. Có hai khu vực. Một khu vực là “kinh tế tự sống” (52% người Việt, 2%PNB), một khu vực kinh tế là “động lực” (FDI, Công ty nhà nước lớn, rải rác tư nhân VN). Trong phần kinh tế “động lực”, thì FDI là chủ yếu, còn lại là Nhà nước + Tư nhân VN. Về cấu trúc, kinh tế VN không khác với kinh tế Nhật, Hàn. Trong đó có một bộ phận tự sống, và một động cơ xuất khẩu toàn cầu, chỉ khác là cái động cơ này là của nó. Và điều này làm thay đổi hẳn tính chất nền kinh tế. Ai đã sang Nhật chẳng hạn, thì sẽ thấy ngoài những cơ sở kinh tế cực kỳ hiện đại, các cơ sở kinh tế nhỏ, buôn bán tiểu thương, trông rất xập xệ vẫn tồn tại. Cái bộ phận này, chính là bộ phận có thể gia giảm tuỳ theo nhu cầu của cái động cơ kia cần.
Nếu so với phương Tây, ví dụ Pháp hay rõ rệt nhất là Mỹ, thì cái phần “kinh tế tự sống” này không có. Vì nó đặt cái phần này ở nước ngoài, trong “thuộc địa” của nó.
Điều đặc biệt ở VN, là cái động cơ kinh tế này không phải của ta mà là của Tây (da vàng: Đài, Sing, Hàn là chủ yếu). Do động cơ không phải là Ta, nên ở VN, cái động cơ này chỉ mang lại lợi ích qua tiền lương. Mà tiền lương thì nó phải bắt chẹt để càng ngày càng giảm. Trong trường hợp như thế thì không thể có xã hội tiêu thụ. Vì người sản xuất và người mua không phải là một. Không những thế mà có thể xẩy ra tình trạng, để câu FDI vào, phải tạo ra thuận lợi cho nó (giá năng lượng, điện nước, nhân công). Cái thuận lợi này có thể phải bù giá bằng thuế (ví dụ điện bán cho nó rẻ hơn giá sản xuất). Kết quả lãi của nó (FDI) là lỗ của mình. Tức là càng làm càng nghèo. Đây chính là câu trả lời cho lời than vãn của Blackberry tại sao có hàng mà không có tiền mua. Và đây chính là vấn nạn của tất cả các nước đang phát triển.
Tất nhiên vẫn có một phần tích luỹ lọt vào túi mình. Và ở đây đặt ra vấn đề là sử dụng nó như thế nào. Hiện tại theo như tôi hiểu thì ở VN phần tích luỹ này là bằng không. Và đây chính là yếu điểm 10 cầm quyền của ông Dũng. Còn lại vấn đề là chi tiêu của chính phủ, nhà nước (tức là ngân sách) cũng có thể dùng để tạo phát triển. Và chính cái phần này bị ăn, bị ảnh hưởng lớn nhất bởi tham nhũng. Một phần nữa là tích luỹ của xã hội, nằm ngoài nhà nước. Cái tiền này là tín dụng đen, hay được giấu dưới sàn nhà, hay được gửi vào các ngân hàng thương mại mới được lập trong vòng 10 năm qua. Tích luỹ xã hội, thì tất nhiên người ta muốn an toàn, vì tiền họ tiết kiệm không phải để kinh doanh mà để phòng ngừa rủi ro trong đời sống. Như vậy vai trò của ngân hàng thương mại rất lớn trong định hướng đầu tư (vì nó là nơi gom tiền về, tích tiểu thành đại). Vấn đề là nó không có cửa để kinh doanh. Nên cửa ra chỉ có trái phiếu hay bất động sản.
Nói một tí về tham nhũng. Tham nhũng có nhiều ảnh hưởng xấu, nhưng nếu nó vẫn nằm trong các ngân hàng thương mại, thì sự thiệt hại mới chỉ một nửa. Nó chỉ thực sự là thiệt hại, khi tiền bị mang đi mất.
Trước đây khi hệ thống ngân hàng chưa có thì “cởi trói”, “phá rào” cho kinh doanh tư nhân giúp sử dụng được tín dụng đen. Nhưng bây giờ thì hết rồi. Vấn đề đặt ra bây giờ là phải có kế hoạnh phát triển (kế hoạch không phải như cái bản báo cáo vớ vẩn được đưa tin ầm ĩ trên báo do WB và Hàn quốc tài trợ, VN năm 2030 gì đó, mà là định hình được đầu tư vào đâu, chiến lược nào nhằm vào công nghiệp nặng, và công nghiệp chế tạo).
Có những nghành nghề mà VN có thể ưu tiên, nó bao gồm công nghệ khai thác dầu khí, công nghiệp quân sự, chế biến nông sản, giảm xuất khẩu thô, dịch vụ (ví dụ VN airline, Viettel) các “hòn gạch cơ bản” của công nghiệp nặng: lọc dầu, luyện kim…
TP HCM (và vùng phụ cận) có lợi thế để trở thành một trong những trung tâm cho những ngành nghề ấy.
Phó Thường Nhân
Hôm nay lại lôi cái chủ đề này lên, vì hôm qua tôi vừa đọc được mấy cái tin về quốc hội tranh luận về vấn đề quy chế đặc biệt cho thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó có mấy ý kiến đáng chú ý:
1- Ý kiến của chủ tịch quốc hội, tứ tứ trụ (tức là cái cột thứ 4) của chính trị VN, nói tới việc không thể cào bằng các địa phương, để chúng “cùng sắp hàng ngang đi với nhau”. Từ ý này suy ra là nếu thành phố HCM có quy chế đặc biệt thì nó sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn.
2- Ý kiến của nhà sử học (dân biểu) Dương Trung Quốc, nói chuyện này đã “chín mõm”, mà vẫn không được giải quyết.
3- Thông tin về việc đóng góp của thành phố cho ngân quỹ nhà nước, nhiều hơn rất nhiều số tiền được giữ lại, trong khi thành phố có nhiều vấn đề phải giải quyết về giao thông, triều cường, nhà ở,..

Tôi sẽ lần lượt phân tích từng ý. Chủ đề này đã có từ trước, viết tiếp vào đây, tôi cũng không đọc lại, vì thế có thể sẽ có việc nói lại, hay nói ngược ý (điều này thì hơi khó về nguyên tắc, vì tư duy của tôi chỉ có một, nhưng khả năng có sự mâu thuẫn là có thể).
1- Về ý một. Điều của chủ tịch quốc hội nói, thực ra chỉ đúng một nửa. Bởi vì một địa phương, ví dụ như thành phố HCM, nếu nó nổi trội lên, thì không phải chỉ đơn giản là do chính nó, mà còn là vấn đề nó hút “máu mỡ” cuả các vùng xung quanh mà tạo nên. Một thành phố không bao giờ chỉ sống bằng chính nó, mà bởi vì nó là điểm hội tụ, trao đổi của cả một vùng đất, có cái sân sau đằng sau. Thành phố HCM hút máu mỡ lục tỉnh Nam kỳ, miền đông Nam bộ, Nam Tây nguyên. Tương tự như vậy, Hà nội hút máu mỡ nhân lực đồng bằng bắc bộ.
Hiện tại, do có vấn đề toàn cầu hoá, dẫn tới việc tan vỡ nhà nước, khoét sâu mâu thuẫn vùng miền (như tôi đã đề cập trong chủ đề “xã hội công nghiệp hoá cao độ”), một thành phố có thể không còn cần tới cái sân sau nữa, nhưng điều này chưa hoàn toàn xẩy ra ở VN. Và nếu nó xẩy ra, thì việc đặt ra quy chế đặc biệt còn tạo ra tiền lệ nguy hiểm hơn nữa về cát cứ.
Sự phát triển một vùng địa phương, không chỉ là việc của chính quyền địa phương, mà nó còn là việc của chính quyền trung ương. Cho nên kiểu đánh giá TP HCM hay Hà nội chịu thiệt thòi, là không đúng. Ví dụ, những việc xây dựng mở mang cảng mới (vũng mép hay thị mép gì đó, tôi không nhớ tên), hay việc sắp tới xây sân bay Long thành, mà cái giá của nó có thể thổi bay nhà nước dẫn đến vỡ nợ, thực ra là có lợi trực tiếp cho thành phố HCM, dù nó không được xây trên đất thành phố.
2- Việc có ý kiến đòi tự trị cho TP HCM đã có từ lâu. Chủ đề này tôi mở ra đã lâu, và vấn đề này đã có từ chục năm nay. Nhưng ở đây, ông Dương Trung Quốc đã nhầm thời gian vấn đề đặt ra và điều kiện để có thể thoả mãn nó. Nếu có điều kiện để thoả mãn nó, mà không làm thì mới gọi là “chín mõm”, còn không thì không phải. Đối với tôi, điều kiện để có thể thoả mãn yêu cầu này của TP HCM là không có, có nghĩa là nó vẫn còn xanh, mà chưa chín. Tại sao ?
Bởi vì hiện tại cơ cấu nhà nước Vn chưa hoàn thiện. Sự chưa hoàn thiện này tôi đã nói tới khi bình luận về việc bãi nhiệm chủ tịch Đà nẵng chưa xong. Hiện tại như tôi đã nói, cơ cấu Đảng- Chính phủ ở VN chưa chặt, chưa đủ. Đảng là bệ phóng để người ta có vị trí trong nhà nước, nhưng khi Đảng kiểm tra giật ông xuống, thì ông lại “bám trụ” vào cơ chế chính phủ ngồi ỳ ra. Kết quả không có sự việc sai phạm nào được giai quyết triệt để thoả đáng. Trong một cơ chế như thế, ông càng phân quyền cho địa phương, dưới dạng “đặc biệt” thì càng chết, càng loạn, càng tạo nhiều sứ quân. Chính vì thế mà điều kiện để có thể giao đặc trách cho một địa phương chưa nên làm. Nó chỉ có thể làm khi đã có cơ chế kiểm tra, lột lon cách chức quan chức nhà nước được hoàn thiện hoá, thành cơ chế hiệu quả. Đây là điều phải làm trước tiên, trước khi phân quyền tiếp.
Thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, VN đã phân quyền cho các địa phương để thi đua xếp hạng cạnh tranh, kết quả có ra gì đâu, ngoài một đống sai phạm. Còn chính sách phát triển thì đua nhau, làm giống nhau. Ví dụ vụ đua nhau làm nhà máy lọc dầu là ví dụ. Dẫn đến việc tỉnh Bình Định, kiếm được đối tác cha căng chú kiết nào chẳng rõ, đòi làm một cái tượng đài "nhà máy lọc dầu" tới 20 tỉ đô, điều mà một hãng đa quốc gia có tiếng như Mobile, Total còn không có khả năng, thế mà ông cứ nằng nặc đòi là được, đòi kinh phí (may mà dẹp được), chứ để nó mở ra thì khác gì đổ tiền xây một cái tượng vĩ đại để chơi.
3- Hiện nay đúng là thành phố HCM đối mặt với nhiều thách thức, nhưng sẽ là một sai lầm nếu coi đó là thách thức chỉ của TP HCM. Nó là thách thức vùng, triều cường, giao thông, nhà ở không thể chòm chõm quy hoạch trong thành phố. Ví dụ, về nhà ở nếu chỉ nhìn hạn hẹp trong thành phố thì bắt buộc phải xây cao, đầu tư tốn kém, trong khi nhà ở có thể xây trong các thành phố vệ tinh thuộc vào các tỉnh xung quanh. Nếu muốn không chế triều cường thì phải nhìn cả vùng, chứ triều cường đâu có chỉ nhìn vào duy nhất TP HCM để gây ngập lụt. Tương tự như vậy với giao thông công cộng.
Như vậy, cho phép TP HCM giữ lại nhiều phần trăm tiền đóng góp là cách giải quyết. Với tôi nó không phải là cách tốt nhất. Cách tốt nhất là số tiền nhà nước thu về, không cào bằng hết mà để một phần làm một cái quỹ phát triển. Và các địa phương có thể tuỳ theo thời hạn được quyền đặc biệt sử dụng. Người ta có thể quy thành luật, để địa phương được ưu tiên có quyền sử dụng cái quỹ đó trước theo một thời hạn nhất định (kiểu như chơi họ).
Phó Thường Nhân
Tóm lại cách thức giải quyết tốt nhất vấn đề tránh “dàn hàng ngang đi dung dăng dung dẻ” trong ngân sách, thì không phải là “chia lại không đồng đều, có đặc cách”, mà phải thay đổi cách sử dụng ngân sách đưa về Trung ương ra sao. Cái ngân sách T.Ư. này nên để ra một khoản lập quỹ, để các địa phương, mà đầu tiên là TP HCM có việc được sử dụng. Gọi là lập quỹ, nhưng không phải là lại nhân cơ hội đó, tạo ra một hệ thống ban bệ đầy ắp người, lấy cớ quản lý nó rồi rút tiền ăn chơi sạch sẽ kiểu làm tượng đài. Thực ra nó chỉ là một chức năng thêm của bộ tài chính. Và cách sử dụng nó nên đưa vào luật. Ví dụ có thể ra luật cho phép TP HCM được dùng nó trong một thời hạn 5 năm (ví dụ) để giải quyết những việc mà TP cần làm ngay. Hết thời hạn rồi, thì các tỉnh các thành phố khác có thể sử dụng, nếu việc chưa xong thì có thể thêm hạn v..v... Cũng nên khuyến khích các tỉnh, thành phố gần kề nhau liên minh với nhau cùng giải quyết. Ví dụ. Nếu TP HCM dùng thì nên liên minh với tỉnh bạn, thành phố bạn dùng quỹ đó để giải quyết triều cường, giao thông, ..
Hiện nay, Tổng Bí thư đã đưa ra ý kiến chỉ đạo là giảm nhân sự nhà nước (ngày xưa gọi là giảm biên chế). Đây cũng là cơ hội rất tốt, để có thể lập quỹ, vì ngân quỹ đưa về, một phần rất lớn là để trả lương công nhân viên chức nhà nước. Nếu làm tốt giảm biên chế, thì phần tiết kiệm được có thể lập quỹ kiểu này.
Việc một nước có một thành phố, một vùng kinh tế đóng vai trò đầu tầu cho nhà nước không phải là việc hiếm có trên thế giới, mà thực ra là chuyện rất thường tình. Hầu như một nền kinh tế phát triển nào, lãnh thổ của nó cũng có vấn đề như vậy. Ví dụ Paris và phụ cận với Pháp, Vùng Baden-Wuttemberg với Đức, Luân đôn với Anh, Tokyo với Nhật, New York với Mỹ.. Sao Paulo với Brazil, BomBay với Ấn độ, Thượng Hải với TQ..
Vậy ở những nước này, người ta giải quyết thế nào việc “dung dăng dung dẻ”. Việc đầu tiên đập vào mắt người ta, là không ở đâu họ đặt ra vấn đề đặc khu, để chính quyền địa phương có nhiều quyền hơn, mà lại tìm cách hạn chế nó.. tại sao lại thế, vì họ sợ cát cứ. Lấy ví dụ Paris ở Pháp, thành phố này có tất cả 20 ông thị trưởng cộng với 1 thị trưởng của Paris, nhưng vai trò thị trưởng này bị hạn chế về hành chính. Do là thủ đô, nên các chế tài cứng của nhà nước (an ninh, kiểm soát) là do nhà nước Trung ương đảm nhiệm. Trước năm 1945, Paris còn nằm trong một department (tức là cấp huyện, vì cơ chế hành chính toàn nước Pháp là theo huyện), và Paris là một thành phố của huyện này. Sau năm 45, do vùng ngoại thành Paris, đảng cộng sản Pháp chiếm đa số phiếu, mà nước Pháp không muốn thủ đô được đại diện bởi đảng cộng sản Pháp, nên nó lại chia nhỏ cái huyện này thành 5 huyện, mà người ta thấy tới bây giờ bao gồm : Paris(75), Haut de Seine (92), Saint Denis (93), Val-de-Marne(94), Esson(91). Từ thời tổng thống Sarkozy, thì họ lại thống nhất lại thành cái gọi là “Đai Paris” (grand Paris), nhưng nó cũng không có một ông thị trưởng chung, và không có quyền đặc biệt.
Ở Anh, Từ thời bà đầm thép Thatcher, thì thị trưởng Luân đôn cũng bị hạ bệ, chỉ có vai trò biểu tượng rất hạn chế. Chính vì thế mà thành phố này vừa bầu cách đây vài năm một ông thị trưởng người Hồi giáo, mà chẳng sao cả..vì có quyền gì đâu. Nhưng nó có một đặc khu tôi sẽ nói sau.
Ở Nhật, (tôi chỉ có thông tin có tính lịch sử, vì không có tư liệu cập nhật), cho tới những năm 90 (bây giờ thì tôi không rõ, nhưng chắc chắn sự thay đổi không nhiều), hệ thống nhà nước Nhật dựa trên hệ thống tỉnh, dẫn đến việc các vùng nông thôn chiếm tỉ số áp đảo về dân biểu so với các thành phố. Do ở Nhật dân thành thị là chủ yếu, việc này đã dẫn tới việc hệ thống chính trị Nhật bị áp đảo bởi các chính trị gia “nông thôn”, từ đó mà họ hạn chế quyền lực chính trị thành thị, trong đó có Tokyo. Trong khi thành thị Nhật, đặc biệt là Tokyo là đầu tầu đóng góp chủ yếu cho ngân sách Nhật.
TP HCM hơi đặc biệt so với những thành phố tôi nói ở trên, vì nó không phải là thủ đô. Có những nước có thành phố kiểu này như New York, San Paolo, Bom Bay.. nhưng Mỹ, Ấn, Brazil lại là những nước rất lớn về diện tích và họ lại theo chính thể Liên bang. Vì thế New York cũng là một bang, San Paolo cũng là thành phố một bang, Bom bay cũng vậy. Nhưng VN không có cơ chế này.
Còn lại một thành phố có nhiều điểm tương đồng với TP HCM là Thượng hải. Nhưng đáng tiếc là tôi không có thông tin nhiều về nó. Tôi chỉ có nhận xét rằng, thường những nhân vật lãnh đạo tối cao của TQ, thông thường đều từ Thượng Hải lên. Cái này báo chí tư sản phương Tây hay quy chụp là “bè nhóm Thượng Hải”, nhưng điều này cũng có thể hiểu được vì Thượng Hải là thành phố đi đầu ở TQ (bây giờ có lẽ nó bị cạnh tranh bởi nhiều thành phố khác: Bắc kinh, Vũ Hán, Trung Khánh, Đặc khu Hồng Công..) nên nhân sự của nó cũng có tầm nhìn rộng hơn, có khả năng hơn. Nhưng cũng có những lãnh đạo TQ không đi qua cửa này, ví dụ ông Hồ Cẩm Đào.

Phó Thường Nhân
Quy chế mới của TP HCM đã được quốc hội thông qua. Trong đó có ba điều đáng chú ý là:
1- Thành phố được đặt thêm thuế.
2- Thành phố được quyền vay nợ nước ngoài tới mức 90% thu nhập.
3- Thành phố được tuỳ quyền dùng quỹ đất dưới 10 héc ta.
Như vậy là nó ngược với suy nghĩ của tôi, là trích từ trong cái khoản thuế hiện tại để tạo quỹ phát triển. Hiện nay thì chưa thể biết tác dụng của những biện pháp này thế nào. Trong ba biện pháp ấy, thì biện pháp thứ hai đáng sợ nhất và nó cũng là điều hấp dẫn nhất trong 3 điều trên với những người lãnh đạo thành phố. Vì sao ? bởi vì tăng thuế phụ thu thì thành phố sẽ bớt hấp dẫn, quỹ đất thành phố không phải vô hạn, và cũng bởi khi đi vay, một pháp nhân bao giờ cũng được hệ thống tài chính đánh giá khả năng chi trả. Do là đầu tầu kinh tế, TP có khả năng vay dễ dàng hơn các địa phương khác, nhưng nó cũng tiềm ẩn sự đổ bể, nếu quản lý không chặt. Khi đổ bể, nó sẽ dẫn tới nhưng kiểu sau:
1- Thành phố bắt buộc phải thu thêm thuế phụ thu để trả nợ, điều đó đồng nghĩa với giảm tính hấp dẫn kinh tế của thành phố.
2- Nợ thành phố, được nhà nước bảo đảm, sẽ dẫn tới việc nó trở thành nợ nhà nước.
3- Hoặc thành phố sẽ phải giảm đóng góp thuế cho nhà nước để trả nợ, điều này cũng sẽ tương tự như điều 2.
Với quy chế này, trong tương lai, có thể TP HCM trở thành cục nợ khổng lồ cho nhà nước hơn là đầu tầu kinh tế như hiện nay, khi nó sẽ vay thả dàn như Vinashin, vì có cớ chế nào ngăn cản thành phố vay thả dàn, do quy chế đặc biệt.
Chỉ có điều đáng chú ý trong việc thông qua cái quy chế này, đó là Quốc hội đã áp đặt cái khung quản lý cho chính phủ, vì những điều mà TP HCM được ưu tiên, là giật quyền từ tay thủ tướng, mà chính phủ không thể phản đối được.
Phó Thường Nhân
Vừa được quốc hội thông qua, TP HCM đã bắt đầu rập rịch sử dụng cơ chế mới này. Và cách tiếp cận của TP có lẽ chưa chắc là cách tiếp cận hay nhất, bởi TP định thực hiện 2 biện pháp, có liên quan tới nhau:
1- Tăng thuế trên các mặt hàng rượu, thuốc lá.
2- Chỉnh sửa, tăng thang bậc lương cho viên chức thành phố.
Nếu hai biện pháp này được thực hiện, thì thực ra không có sự phát triển nào cả, bởi vì tiền thu được không được dùng để đầu tư, tạo ra những nghành nghề mới cho TP, mà lại được đưa vào lương bổng, tức là phần tiền chi phí hoạt động.
Một ngân quỹ bao giờ cũng có thể chia nó làm hai phần. Phần chi phí hoạt động (lương bổng, giá chi trả hoạt động cho các cơ quan quản lý) và phần đầu tư. Phần đầu tư này lại có thể chia làm hai phần: phần dành cho hạ tầng cơ sở , và phần tạo ra công cụ sản xuất.
Là bộ máy quản lý hành chính, tất nhiên quan chức địa phương thấy ngay nhu cầu của chi phí hoạt động, còn phần đầu tư tạo ra công cụ sản xuất thì phải có tầm nhìn và đồng thời nó cũng không hẳn là nhiệm vụ trực tiếp của TP, vì ở VN đâu còn cơ chế bao cấp mà la thị trường tự do. Còn lại phần hạ tầng cơ sở (giao thông, đường xã, cống rãnh, quỹ nhà ở..). hiện nay hạ tầng cơ sở ở TP cũng có vấn đề (tắc đường, ngập lụt, nhà ở xuống cấp, ..) thì việc này nhiều khi cũng liên quan tới vùng. Có thể những điều đó đã khiến cơ chế mới được hướng vào hai điều trên.
Việc thu thuế trên các mặt hàng nói trên có thể chấp nhận được (về nguyên tắc) còn về kỹ thuật để làm sao thu được nó lại là vấn đề khác, tương đối nan giải. Nhưng số tiền phụ thu này nên nhằm vào hạ tầng cơ sở, quỹ nhà cửa, giao thông.. hơn là chi dùng cho lương bổng.
Thành phố cũng có thể dùng nó để chi dùng cho phát triển nghành nghề, văn hoá. Một trong những hướng đi của những thành phố có tầm cỡ thế giới như TP HCM là đầu tư cho các công trình văn hoá, tạo lập biểu tượng : bảo tàng tầm cỡ quốc tế, công nghiệp phim ảnh, thời trang, thể thao, du lịch,thị trường tài chính, thị trường sản phẩm nông nghiệp : cà phê, hoa quả nhiệt đới ..
Do là thành phố cảng, TP HCM có thể phát triển các ngành nghề cơ khí, dịch vụ liên quan tới vận tải đường biển, rồi công nghiệp quốc phòng (điều này thì có lẽ vượt khỏi tầm thành phố).
Việc chỉnh sửa thang bậc lương không nên lấy tiền dư này tiêu dùng, mà nên gắn nó với cải cách hành chính, giảm số lượng công nhân viên chức, rồi lấy số tiền tiết kiệm được từ đó mà tăng lương. Cải cách hành chính này có thể làm đồng thời với việc “tin học hoá” hành chính, qua chính phủ điện tử hay các dạng tương tự, rồi từ đó có thể giảm biên chế.
Quán nước đầu làng Ven > Gặp Gỡ - Trao Đổi - Làm Quen > Thời Sự
Bạn đang xem phiên bản gọn nhẹ của diễn đ n dưới dạng text, để xem các b i viết với đầy đủ mầu sắc v hình ảnh hãy nhấn v o đây !
Invision Power Board © 2001-2024 Invision Power Services, Inc.