Hiệp định Thành đô 1990 hiện giờ đang được thổi ở trên mạng lề trái, có lẽ giống kiểu các đồn thổi liên quan tới việc hoạch định biên giới trên bộ vào thập niên 90. Lúc đó không thiếu các bác yêu nước lề trái ngồi khóc cho việc mất thác Bản Giốc một cách tưởng tượng. Nhưng có lẽ họ khóc cho sự thất bại của mình thì đúng hơn, vì họ đã không đạt được mục đích gây chiến tranh giữa VN và TQ. Cho đến bây giờ, việc hoạch định biên giới trên bộ và trên biển ở Vịnh Bắc bộ rõ ràng góp phần vào việc ổn định quan hệ VN-TQ, và không thể nói VN thiệt.
Hiệp định Thành Đô có tồn tại không. Điều này không thể biết, vì nếu nó có tồn tại thì ở trong dạng hiệp định bí mật, mà đã là hiệp định bí mật, thì tất nhiên nó không thể công khai. Bây giờ đòi nó công khai thì có nghĩa nó không còn là bí mật. đại khái luẩn quẩn như thế, thì không khác gì mèo cắn đuôi mèo, không giải quyết được cái gì, ngoài điều gây nghi ngờ bằng tuyên truyền, điều mà lề trái rất thích, vì tuyên truyền thất thiệt vốn là sở thích của nó. Vậy tìm hiểu nó thế nào ?
Bây giờ cứ giả thiết là cái hiệp định đó tồn tại đi, và ta thử đi đoán xem nội dung của nó là gì, hay đúng hơn ảnh hưởng của nó tới sự độc lập chính trị ở VN. Muốn thế chỉ có cách dùng duy vật lịch sử, tức là xét trong mối quan hệ VN-TQ từ năm 1990, VN phụ thuộc vào TQ ở chỗ nào, Nếu nó phụ thuộc, thì có thể đoán là có cái hiệp định ấy thực. Còn nếu điều đó không có, thì có nghĩa là sự tồn tại của nó, dù là có thật, cũng vô ích.
Muốn chắc chắn hơn, thì dùng duy vật lịch sử theo cả phương pháp so sánh nữa. Tức là xem xét xem những hiệp định bí mật khác trên thế giới, xem người ta tuân thủ thế nào. Và vì nó cũng là bí mật, người ta chỉ có thể tìm hiểu nó qua hệ quả của quan hệ giữa hai nước cùng ký cái hiệp định ấy thì biết.
Trên thế giới hiệp định bí mật không phải là hiếm, và nó có thể coi là cái cơ chế của chủ nghĩa thực dân mới. Ở đây tôi sẽ đưa ra 4 hiệp định, để chứng minh.
1- Hiệp ước phòng thủ Mỹ - Nhật. Khi Nhật thua trận bị Mỹ chiếm đóng, Mỹ đã chiếm đóng từ năm 1945 đến năm 1958. Sau đó Mỹ đã trả lại độc lập cho Nhật bằng hiệp định San Francisco. Kèm theo hiệp định nổi trao trả độc lập, có một hiệp định chìm, mà cho đến bây giờ không ai được biết. Vào những năm 70, phe tả ở Nhật bản đã tìm cách phản đối xoá bỏ nó, nhưng không được. Đến khi phe tả lên cầm quyền (đảng xã hội Nhật), sau khi Liên Xô tan ra, họ cũng không thể xoá bỏ được nó (và theo phân tích của tôi, vì nó chấp nhận không xoá bỏ, mới lên nắm quyền được).
2- Hiệp định phòng thủ Mỹ-Hàn quốc.
3- Những hiệp ước bí mật ký giữa các nước châu Phi với Pháp khi Pháp trao trả độc lập. Ví dụ hiệp định giữa Pháp – Sê nê gan, Pháp – bờ biển Ngà, Pháp – Trung phi, Pháp – Ca mơ run..
4- Hiệp định bí mật giữa Liên Xô và I ran (thời trước cách mạng hồi giáo). Hiệp định này được ký để đổi lại Liên Xô rút quân khỏi miền bắc I ran sau đại chiến thế giới thứ 2.
Đầu tiên hãy nói tới cái hiệp định thứ 4, (Liên Xô - I ran), để thấy không phải cứ có hiệp định là nó có hiệu lực, đặc biệt kiểu hiệp định kín. Vào khoảng năm 1943, 1944. Liên Xô cùng Anh – Mỹ thoả thuận đưa quân vào I ran, vì sợ nước này theo Đức, và đồng thời tạo thêm một điểm gặp gỡ giữa các đồng minh. Liên Xô đưa quân vào miền Bắc I ran, Anh đưa quân vào miền Nam I ran. Khi chiến tranh kết thúc, theo hiệp định Yalta, tất cả các nước phải rút quân. Liên Xô đã rút quân, đổi lại là một hiệp ước bí mật được ký giữa I ran và Liên Xô. Sau đó, chính quyền Mô sa đéc, là chính quyền dân tộc I ran bị CIA lật đổ, do nó đã dám quốc hữu hoá nghành dầu mỏ ở nước này. Hiệp định bí mật Liên Xô – I ran không giúp được gì cho I ran, cũng không giúp Liên Xô giữ được ảnh hưởng. Nó đã bị nhà nước Hồi giáo I ran hiện tại đơn phương thủ tiêu khi cách mạng hồi giáo nổ ra năm 1979.
Bây giờ nói tới hiệp định thứ 3, giữa Pháp và các nước châu Phi thuộc địa cũ của Pháp. Những hiệp định này cho phép Pháp đóng căn cứ quân sự ở các nước này, cũng như chịu trách nhiệm phòng thủ. Theo đó, quân đội các nước châu Phi đều bị hạn chế (về số lượng, không có hải quân, không quân ,..). Bên cạnh đó, có hiệp định nổi về tài chính, các nước này không có tiền riêng, mà tiêu một đồng tiền chung, được đảm bảo bằng bộ tài chính Pháp, và kho bạc Pháp..
Hệ quả của nó là gì. Là Pháp hoàn toàn lũng đoạn kinh tế, chính trị các nước này. Vì cái Pháp nắm kín (quân sự) chính là khung quyền lực ngầm, còn « đa nguyên đa nhóm » chỉ là cái vỏ. Điều này cũng xẩy ra với chính quyền Sài gon ngày trước, có điều ở đây chẳng có hiệp định ngầm gì vì quân đội Mỹ ngồi ở VN rồi. Cộng với một hệ thống tài chính tiền tệ chung, đã khiến các nước này gần như là các tỉnh của Pháp. Hiện nay các nước này đang tìm cách vùng ra bằng các quan hệ kinh tế ngoài Pháp (với TQ chẳng hạn), vì về mặt nổi, Pháp không thể làm gì. Nhưng cuộc đấu còn lâu dài.
Hiệp định thứ 2, giữa Mỹ và Hàn quốc. Ở Hàn quốc không có độc lập về quân sự, ngay cả về hình thức. Vì tổng chỉ huy tối cao là liên minh quân sự Mỹ - Hàn, và người đứng đầu thường là tướng Mỹ. Ở đây cái khung cứng quyền lực là quân đội chiếm đóng Mỹ.
Hiệp định thứ nhất, giữa Mỹ - Nhật. tính chất của nó cũng gần như quan hệ Mỹ - Hàn quốc. Và đây là điều giải thích, tại sao Mỹ làm gì, Nhật cũng đi theo. Đổi lại , Nhật được tiếp cận thị trường Mỹ. Nhưng nó thích thì nó đóng.
Từ những ví dụ trên, người ta có thể rút ra được kết luận gì. Với tôi nó có mấy điều.
1- Đã là hiệp định bí mật, thì hai bên phải đồng ý. Nếu không có sự đồng thuận ngấm ngầm thì không thể thực hiện, vì nó đã là bí mật, thì ông không thể đưa ra công khai để đòi.
2- Để bắt bên yếu (vì hiệp định không bao giờ là cân bằng với hai bên) phải ngấm ngầm đồng thuận, bên mạnh phải năm được cái khung quyền lực ngầm, cái khung cứng. Nếu không có cái khung cứng kia thì vô ích.
Với hai điều trên, ép thử vào các hiệp định kín mà tôi dẫn thì người ta thấy ngay vấn đề. Trường hợp I ran – Liên Xô, hiệp định này là vô ích, vì I ran không đồng ý. Và Liên Xô, một khi rút quân, làm sao còn có cái gì để ép I ran.
Với Pháp, các hiệp định kín đã tạo ra cơ hội để Pháp lũng đoạn chính trị các nước châu Phi, và với các hiệp định kinh tế, các nước này trở thành nửa thuộc địa kiểu mới.
Với Mỹ, Hàn Nhật đều như kiểu tự trị, nhưng ở trong một cái vòng mà Mỹ cho phép. Ở đây Mỹ đã nắm cái khung cứng. Ngược lại, Mỹ nhả về kinh tế. Tại sao như thế thì tôi sẽ nói sau.
Như vậy Thành đô hay không, VN không có dấu hiệu gì chứng tỏ hiệu lực của cái hiệp định bí mật kia nếu nó tồn tại. Cái này cũng sẽ phân tích sau.
Hoàn toàn đồng ý với bác Phó! Phương pháp biện luận trên của bác được tuyệt đại đa số người quan sát chính trị sử dụng, còn trong khoa học người ta gọi là 'dãy bằng chứng hỗ trợ' cho giả thuyết nào đó (Supports Evidence Lines). Hội nghị Thành Đô 1990 dù có thỏa thuận gì thì dãy các bẳng chứng cho đến hiện tại không hề thể hiện một xu thế tiến hóa rằng VN phải lệ thuộc TQ về chính trị và an ninh. Cũng bằng phương pháp 'duy vật lịch sử' này người ta có thể phỏng đoán rất nhiều giả thuyết khác, kể cả những vận động của hệ thống nhà nước và xã hội nói chung.
Tiếp tục với phương pháp luận 'biện chứng' để nói về quan hệ láng giềng VN-TQ hay Ukraina-Nga mà điểm giống nhau là sự trỗi dậy của nước lớn liền đó là động thái chèn ép láng giềng nhỏ hơn. Tạm không bàn đến diễn biến thực địa mà hãy đặt câu hỏi: đâu là giới hạn để dừng lại tâm lý hung hăng và hành vi gây hấn? Kinh tế học Marxism có cái mà về sau phát triển thành Game Theory, cho rằng nhận thức và hành vi của các "tay chơi" có những giới hạn tối đa lợi ích và tối thiểu thiệt hại. Tuy nhiên khi xét quy mô lớn thì dường như lý trí (trí tuệ của nhóm tinh hoa lãnh đạo) đôi khi không áp đảo được cảm xúc (chủ nghĩa dân tộc cực đoan hóa). Kết hợp biện chứng pháp và lịch sử liệu có thể dự đoán chắc chắn được mức độ và diễn biến của phe chủ động (Nga, TQ) với vùng ảnh hưởng của họ không?
Có lẽ khi nào phải vẽ một cái sơ đồ tương tác và thang đo giá trị của các yếu tố trong quan hệ quóc tế để các bác bình giải nhỉ. Tiếc là langven không có tính năng image compose sharing ...